Tuyển tập các bài thơ, tác phẩm hay của Hồ Xuân Hương

5/5 - (1 bình chọn)

Tuyển tập các bài thơ của Hồ Xuân Hương đi vào lòng người. Bà đã chứng tỏ được danh tài nữ với những áng thơ tuyệt đỉnh, nữ sĩ cũng được ngàn đời sau công nhận về tài năng của mình trong mỗi tác phẩm.

những tác phẩm thơ hay của hồ xuân hương
Hồ Xuân Hương được mệnh danh là Bà Chúa Thơ Nôm

1. Lấy chồng chung

Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng,

Chém cha cái kiếp lấy chồng chung.

Năm chừng mười hoạ hay chăng chớ,

Một tháng đôi lần có cũng không.

Cố đấm ăn xôi xôi lại hỏng,

Cầm bằng làm mướn mướn không công.

Nỗi này ví biết dường này nhỉ,

Thời trước thôi đành ở vậy xong.

2. Mời ăn trầu

Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi,

Này của Xuân Hương mới quệt rồi.

Có phải duyên nhau thì thắm lại,

Đừng xanh như lá, bạc như vôi.

3. Bánh trôi nước

Thân em thời trắng phận em tròn,

Bảy nổi ba chìm mấy nước non.

Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn,

Nhưng em vẫn giữ tấm lòng son

tác phẩm của hồ xuân hương
Bánh Trôi Nước là một trong những tác phẩm Hồ Xuân Hương nổi bật nhất

4. Đánh cờ

Chàng với thiếp đêm khuya trằn trọc,

Đốt đèn lên đánh cuộc cờ người.

Hẹn rằng đấu trí mà chơi,

Cấm ngoại thuỷ không ai được biết.

Nào tướng sĩ dàn ra cho hết,

Để đôi ta quyết chí một phen.

Quân thiếp trắng, quân chàng đen,

Hai quân ấy chơi nhau đà đã lửa.

Thoạt mới vào chàng liền nhảy ngựa,

Thiếp vội vàng vén phứa tịnh lên.

Hai xe hà, chàng gác hai bên,

Thiếp sợ bí, thiếp liền ghểnh sĩ.

Chàng lừa thiếp đương khi bất ý,

Đem tốt đầu dú dí vô cung,

Thiếp đương mắc nước xe lồng,
Nước pháo đã nổ đùng ra chiếu.

Chàng bảo chịu, thiếp rằng chửa chịu,

Thua thì thua, quyết níu lấy con.

Khi vui nước nước non non,

Khi buồn lại giở bàn son quân ngà.

5. Cái nợ chồng con

Hỡi chị em ơi có biết không

Một bên con khóc một bên chồng

Bố cu lổm ngổm bò trên bụng

Thằng bé hu hơ khóc dưới hông

Tất cả những là thu với vén

Vội vàng nào những bống cùng bông

Chồng con cái nợ là như thế

Hỡi chị em ơi có biết không

Bỡn bà lang khóc chồng

6. Cái kiếp tu hành

Cái kiếp tu hành nặng đá đeo

Vị gì một chút tẻo tèo teo

Buồm từ cũng muốn về Tây Trúc

Trái gió cho nên phải lộn lèo

7. Cảnh thu

Thánh thót tầu tiêu mấy giọt mưa,

Khen ai khéo vẽ cảnh tiêu sơ,

Xanh um cổ thụ tròn xoe tán,

Trắng xóa tràng giang phẳng lặng tờ.

Bầu giốc giang sơn say chấp rượu,

Túi lưng phong nguyệt nặng vì thơ

Cho hay cảnh cũng ưa người nhỉ,

Thấy cảnh ai mà chẳng ngẩn ngơ.

8. Dệt cửu

Thắp ngọn đèn lên thấy trắng phau

Con cò mấp máy suốt đêm thâu

Hai chân đạp xuống năng năng chắc

Một suốt đâm ngang thích thích mau

Rộng hẹp nhỏ to vừa vặn cả

Ngắn dài khuôn khổ cũng như nhau

Cô nào muốn tốt ngâm cho kỹ

Chờ đến ba thu mới dãi màu

Dỗ người đàn bà khóc chồng

Đá Ông Chồng Bà Chồng

Đài Khán Xuân

9. Chùa Quán Sứ

Quán Sứ sao mà cảnh vắng teo

Hỏi thăm sư cụ đáo nơi neo

Chày kinh, tiểu đế suông không đấm

Tràng hạt vãi lần đếm lại đeo

Sáng banh không kẻ khua tang mít

Trưa trật nào ai móc kẽ rêu

Cha kiếp đường tu sao lắt léo

Cảnh buồn thêm ngán nợ tình đeo

những tác phẩm của hồ xuân hương
Những tác phẩm của Hồ Xuân Hương luôn nhận được sự yêu thích

10. Chợ Trời Chùa Thầy

Hoá công xây đắp đã bao đời,

Nọ cảnh Sài Sơn có chợ Trời.

Buổi sớm gió đưa trưa nắng đứng,

Ban chiều mây họp, tối trăng chơi.

Bày hàng hoa quả tứ mùa sẵn,

Mở phố giang sơn bốn mặt ngồi.

Bán lợi mua danh nào những kẻ,

Chẳng nên mặc cả một đôi lời.

11. Cảnh chùa ban đêm

Tình cảnh ấy, nước non này

Dẫu không Bồng Đảo cũng Tiên đây

Hành Sơn mực điểm đôi hàng nhạn

Thứu Lĩnh đen trùm một thức mây

Lấp ló đầu non vầng nguyệt chếch

Phất phơ sườn núi lá thu bay

Hỡi người quân tử đi đâu đó

Thấy cảnh sao mà đứng lượm tay

12. Đánh đu

Bốn cột khen ai khéo khéo trồng

Người thì lên đánh kẻ ngồi trông

Trai đu gối hạc khom khom cật

Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng

Bốn mảnh quần hồng bay phấp phới

Hai hàng chân hạc duỗi song song

Chơi xuân có biết xuân chăng tá

Cọc nhổ đi rồi lỗ bỏ không

13. Đèo Ba Dội

Một đèo, một đèo, lại một đèo

Khen ai khéo tạc cảnh cheo leo

Cửa son đỏ loét tùm hum nóc

Hòn đá xanh rì lún phún rêu

Lắt lẻo cành thông cơn gió thốc

Đầm đìa lá liễu giọt suơng gieo

Hiền nhân quan tử ai mà chẳng

Mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo

14. Đền Sầm Đống

Ghé mắt trông ngang thấy bảng treo

Kìa đền thái thú đứng cheo leo

Ví đây đổi phận là trai nhỉ

Thì sự anh hùng há bấy nhiêu!

15. Đồng tiền hoẻn

Cũng lò cũng bễ cũng be than,

Mở mặt vuông tròn với thế gian.

Kém cạnh cho nên mang tiếng hoẻn,

Đủ đồng ắt cũng đáng nên quan

16. Động Hương Tích

Bày đặt kia ai khéo khéo phòm

Nứt ra một lỗ hỏm hòm hom

Người quen cõi Phật xen chân xoạc

Kẻ lạ bầu tiên mỏi mắt dòm

Giọt nước hữu tình rơi thánh thót

Con thuyền vô trạo cúi lom khom

Lâm tuyền quyến cả phồn hoa lại

Rõ khéo trời già đến dở dom

17. Giếng thơi

Ngõ ngay thăm thẳm tới nhà ông,

Giếng tốt thanh thơi, giếng lạ lùng.

Cầu trắng phau phau đôi ván ghép,

Nuớc trong leo lẻo một dòng thông.

Cỏ gà lún phún leo quanh mép,

Cá diếc le te lách giữa dòng.

Giếng ấy thanh tân ai cũng biết,

Đố ai dám thả nạ dòng dòng.

18. Hang Cắc Cớ

Trời đất sinh ra đá một chòm

Nứt làm hai mảnh hỏm hòm hom

Kẽ hầm rêu mốc trơ toen hoẻn

Luồng gió thông reo vỗ phập phòm

Giọt nước hữu tình rơi lõm bõm

Con đường vô ngạn tối om om

Khen ai đẽo đá tài xuyên tạc

Khéo hớ hênh ra lắm kẻ dòm

19. Hang Thánh Hoá

Khen thay con tạo khéo khôn phàm

Một đố giương ra biết mấy ngoàm

Lườn đá cỏ leo sờ rậm rạp

Lách khe nước rỉ mó lam nham

Một sư đầu trọc ngồi khua mõ

Hai tiểu lưng tròn đứng sau am

Đến mới biết là Hang Thánh Hoá

Chồn chân mỏi gối vẫn còn ham!

20. Hỏi trăng 1

Mấy vạn năm nay vẫn hãy còn,

Cớ sao khi khuyết lại khi tròn?

Hỏi con Ngọc Thỏ đà bao tuổi?

Chứ chị Hằng Nga đã mấy con?

Đêm vắng cớ chi phô tuyết trắng?

Ngày xanh sao lại thẹn vừng son?

Năm canh lơ lửng chờ ai đó?

Hay có tình riêng với nước non?

21. Hỏi trăng 2

Một trái trăng treo chín mõm mòm

Nẩy vầng quế đỏ đỏ lòm lom!

Trong in chiếc bích khuôn còn méo,

Ngoài khép đôi cung cánh vẫn khòm.

Ghét mặt kẻ trần đua xói móc,

Ngứa gan thằng Cuội đứng lom khom.

Hỡi người bẻ quế rằng ai đó,

Đó có Hằng Nga ghé mắt dòm.

tác phẩm Hồ Xuân Hương
Các tác phẩm của Hồ Xuân Hương luôn mang nét riêng

22. Khóc ông phủ Vĩnh Tường

Trăm năm ông phủ Vĩnh Tường ôi!

Cái nợ ba sinh đã trả rồi.

Chôn chặt văn chuơng ba thước đất,

Tung hê hồ thỉ bốn phương trời.

Cán cân tạo hóa rơi đâu mất,

Miệng túi càn khôn khép lại thôi.

Hăm bảy tháng trời là mấy chốc,

Trăm năm ông phủ Vĩnh Tường ôi!

23. Khóc Tổng Cóc

Chàng Cóc! Chàng cóc ơi!

Thiếp bén duyên chàng có thế thôi

Nòng nọc đứt đuôi từ đây nhé

Nghìn vàng khôn chuộc dấu bôi vôi

24. Không chồng mà chửa

Cả nể cho nên sự dở dang

Nỗi niềm chàng có biết chăng chàng

Duyên thiên chưa thấy nhô đầu dọc

Phận liễu sao đà nảy nét ngang

Cái nghĩa trăm năm chàng nhớ chửa

Mảnh tình một khối thiếp xin mang

Quản bao miệng thế lời chênh lệch

Không có, nhưng mà có, mới ngoan

25. Kẽm Trống

Hai bên thì núi giữa thì sông

Có phải đây là Kẽm Trống không?

Gió giật sườn non khua lắc cắc

Sóng dồn mặt nước vỗ long ong

Ở trong hang núi còn hơi hẹp

Ra khỏi đầu non đã rộng thùng

Qua cửa mình ơi! Nên ngắm lại

Nào ai có biết nỗi bưng bồng

26. Ốc nhồi

Bác mẹ sinh ra phận ốc nhồi,

Đêm ngày lăn lóc đám cỏ hôi.

Quân tử có thương thì bóc yếm,

Xin đừng ngó ngoáy lỗ trôn tôi.

27. Lũ ngẩn ngơ

Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ

Lại đây cho chị dạy làm thơ

Ong non ngứa nọc châm hoa rữa

Dê cỏn buồn sừng húc giậu thưa

28. Nhớ người cũ

Dặm khách muôn nghìn nỗi nhớ nhung

Mượn ai tới đấy gửi cho cùng

Chữ tình chốc đã ba năm vẹn

Giấc mộng rồi ra nửa khắc không

Xe ngựa trộm mừng duyên tấp nập

Phấn son càng tủi phận long đong

Biết còn mấy chút sương siu mấy

Lầu nguyệt năm canh chiếc bóng chong

29. Làm lẽ

Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng

Chém cha cái kiếp lấy chồng chung

Năm thì mười họa hay chăng chớ

Một tháng đôi lần có như không

Cố đấm ăn xôi xôi lại hẩm

Cầm bằng làm mướn mướn không công

Thân này ví biết duờng này nhỉ

Thà trước thôi đành ở vậy xong

tác phẩm tiêu biểu của hồ xuân hương
Nội dung thơ của Hồ Xuân Hương thường mang nghĩa trào phúng

30. Phường lòi tói

Dắt díu nhau lên đến cửa chiền

Cũng đòi học nói, nói không nên

Ai về nhắn bảo phường lòi tói

Muốn sống đem vôi quét trả đền.

31. Quán Khánh

Đứng chéo trông theo cảnh hắt heo

Đường đi thiên thẹo quán cheo leo

Lợp lều mái cỏ tranh xơ xác

Xỏ kẽ kèo tre đốt khẳng kheo

Ba chạc cây xanh hình uốn éo

Một dòng nước biếc cảnh leo teo

Thú vui quên cả niềm lo cũ

Kìa cái diều ai nó lộn lèo

32. Quan thị

Mười hai bà mụ ghét chi nhau

Đem cái xuân tình vứt đi đâu

Rúc rích thây cha con chuột nhắt

Vo ve mặc mẹ cái ong bầu

Đố ai biết đó vông hay trốc

Còn kẻ nào hay cuống với đầu

Đã thế thì thôi thôi mặc thế

Trăm năm càng khỏi tiếng nương dâu

33. Quả mít

Thân em như quả mít trên cây,

Vỏ nó sù sì, múi nó dày.

Quân tử có thương thì đóng cọc,

Xin đừng mân mó nhựa ra tay.

34. Sư bị ong châm

Nào nón tu lờ nào mũ thâm

Đi đâu chẳng đội để ong châm

Đầu sư há phải gì… bà cốt

Bá ngọ con ông bé cái nhầm

35. Sư hổ mang

Chẳng phải Ngô, chẳng phải ta

Đầu thì trọc lốc áo không tà

Oản dâng trước mặt dăm ba phẩm

Vãi núp sau lưng sáu bảy bà

Khi cảnh, khi tiu, khi chũm choẹ

Giọng hì, giọng hỉ, giọng hi ha

Tu lâu có lẽ lên sư cụ

Ngất nghểu toà sen nọ đó mà

36. Tát nước

Đang cơn nắng nực chợt mưa tè

Rủ chị em ra tát nước khe

Lẽo đẽo chiếc gầu ba góc chụm

Lênh đênh một ruộng bốn bờ be

Xì xòm đáy nước mình nghiêng ngửa

Nhấp nhổm bên ghềnh đít vắt ve

Ham việc làm ăn quên cả mệt

Dạng hang một lúc đã đầy phè

37. Thiếu nữ ngủ ngày

Mùa hè hây hẩy gió nồm đông,

Thiếu nữ nằm chơi quá giấc nồng.

Lược trúc lỏng cài trên mái tóc,

Yếm đào trễ xuống dưới nương long.

Đôi gò Bồng Đảo hương còn ngậm,

Một mạch Đào Nguyên suối chửa thông.

Quân tử dùng dằng đi chẳng dứt

Đi thì cũng dở ở không xong.

38. Tranh tố nữ

Hỏi bao nhiêu tuổi hỡi cô mình ?

Chị cũng xinh mà em cũng xinh.

Đôi lứa như in tờ giấy trắng.

Nghìn năm còn mãi cái xuân xanh.

Xiếu mai chi dám tình trăng gió,

Bồ liễu thôi đành phận mỏng manh

Còn thú vui kia sao chẳng vẽ,

Trách nguời thợ vẽ khéo vô tình.

39. Trăng thu

Một trái trăng thu chín mõm mòm

Này vừng quế đỏ, đỏ lòm lom

Giữa in chiếc bích khuôn còn méo

Ngoài khép đôi cung cánh vẫn khòm

Ghét mặt kẻ trần đua xói móc

Ngứa gan thằng Cuội đứng lom khom

Hỡi người bẻ quế rằng ai đó

Đó có Hằng Nga ghé mắt dòm

40. Trống thủng

Của em bưng bít vẫn bùi ngùi

Nó thủng vì chưng kẻ nặng dùi.

Ngày vắng đập tung dăm bảy chiếc,

Đêm thanh đánh lộn một đôi hồi.

Khi dang thẳng cánh bù khi cúi,

Chiến đứng không thôi lại chiến ngồi.

Nhắn nhủ ai về thương lấy với,

Thịt da ai cũng thế mà thôi.

41. Tự tình I

Tiếng gà văng vẳng gáy trên bom,

Oán hận trông ra khắp mọi chòm.

Mõ thảm không khua mà cũng cốc,

Chuông sầu chẳng đánh cớ sao om?

Trước nghe những tiếng thêm rền rĩ,

Sau giận vì duyên để mõm mòm.

Tài tử văn nhân ai đó tá?

Thân này đâu đã chịu già tom!

42. Tự tình II

Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,

Trơ cái hồng nhan với nước non.

Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,

Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn,

Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám.

Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.

Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,

Mảnh tình san sẻ tí con con!

43. Tự tình III

Chiếc bách buồn về phận nổi nênh,

Giữa dòng khao khát nỗi lênh đênh.

Lưng khoang tình nghĩa dường lai láng,

Nửa mạn phong ba luống bập bềnh.

Cầm lái mặc ai lăm đỗ bến,

Dong lèo thây kẻ rắp xuôi ghềnh.

Ấy ai thăm ván cam lòng vậy,

Ngán nỗi ôm đàn những tấp tênh.

44. Vịnh cái quạt I

Mười bảy hay là mười tám đây,

Cho ta yêu dấu chẳng rời tay.

Mỏng dày chừng ấy, chành ba góc,

Rộng hẹp dường nào, cắm một cay.

Càng nóng bao nhiêu thời càng mát,

Yêu đêm không phỉ lại yêu ngày.

Hồng hồng má phấn duyên vì cậy,

Chúa dấu vua yêu một cái này.

45. Vịnh cái quạt II

Một lỗ xâu xâu mấy cũng vừa,

Duyên em dính dán tự bao giờ.

Chành ra ba góc da còn thiếu.

Khép lại đôi bên thị vẫn thừa.

Mát mặt anh hùng khi tắt gió,

Che đầu quân tử lúc sa mưa.

Nâng niu ướm hỏi người trong trướng,

Phì phạch trong lòng đã sướng chưa ?

46. Cặp xướng họa I

HỒ XUÂN HƯƠNG XƯỚNG

Anh đồ tỉnh, anh đồ say

Sao anh ghẹo nguyệt giữa ban ngày

Này này chị bảo cho mà biết

Chốn ấy hang hùm chớ mó tay

CHIÊU HỔ HOẠ

Này ông tỉnh, này ông say

Này ông ghẹo nguyệt giữa ban ngày

Hang hùm ví bẵng không ai mó

Sao có hùm con bỗng trốc tay?

47. Cặp xướng họa II

HỒ XUÂN HƯƠNG XƯỚNG

Sao nói rằng năm lại có ba

Trách người quân tử hẹn sai ra

Bao giờ thong thả lên chơi nguyệt

Nhớ hái cho xin nắm lá đa

CHIÊU HỔ HOẠ

Rằng gián thì năm quý thì ba

Bởi người thục nữ tính không ra

Ừ rồi thong thả lên chơi nguyệt

Cho cả cành đa lẫn củ đa

48. Cặp xướng họa III

HỒ XUÂN HƯƠNG XƯỚNG

Những bấy lâu nay luống nhắn nhe

Nhắn nhe toan những sự gùn ghè

Gùn ghè nhưng vẫn còn chưa dám

Chưa dám cho nên phải rụt rè.

CHIÊU HỔ HOẠ

Hỡi hỡi cô bay tớ bảo nhe,

Bảo nhe không được, gậy ông ghè

Ông ghè không được, ông ghè mãi

Ghè mãi rồi lâu cũng phải rè!

49. Độ Hoa Phong

Chữ Hán Phiên âm Dịch nghĩa
片帆無急渡華封,
峭壁丹崖出水中。
水勢每隨山面轉,
山形斜靠水門通。
魚龍雜處秋煙薄,
鷗鷺齊飛日照紅。
玉洞雲房三百六,
不知誰是水晶宮。
Phiến phàm vô cấp độ Hoa Phong,
Tiễu bích đan nhai xuất thủy trung.
Thủy thế mỗi tùy sơn diện chuyển,
Sơn hình tà kháo thủy môn thông.
Ngư long tạp xử thu yên bạc,
Âu lộ tề phi nhật chiếu hồng.
Ngọc động vân phòng tam bách lục
Bất tri thùy thị Thủy Tinh cung
Lá buồm không vội vượt qua vũng Hoa Phong,
Vách đá đứng, sườn núi đỏ, giữa nước chỏi dựng lên.
Thế nước tùy chỗ theo mặt núi mà biến chuyển.
Hình núi nghiêng mình, nép tựa cửa lạch để nước thông qua.
Cá rồng lẫn lộn, tăm khuất dưới từng hơi nước mỏng mùa thu.
Âu cò cùng bay trong ánh đỏ mặt trời chiều.
Cõi Tiên có ba trăm sáu động ngọc và phòng mây,
Đây không biết chốn nào là cung Thủy Tinh

50. Hải Ốc Trù

Chữ Hán Phiên âm Dịch nghĩa
海屋籌
蘭橈隨意漾中流,
景比山陽更覺幽。
生面獨開雲露骨,
斷鼇爭崎客回頭。
馮夷疊作擎天柱,
龍女添為海屋籌。
大抵始皇鞭未及,
古留南甸鞏金甌。
Hải ốc trù
Lan nhiêu tuỳ ý dạng trung lưu
Cảnh tỉ sơn dương cánh giác u
Sinh diện độc khai vân lộ cốt
Đoạn ngao tranh kị khách hồi đầu
Bằng Di diệp tác kình thiên trụ
Long Nữ thiêm vi hải ốc trù
Đại để Thuỷ Hoàng tiên vị cập
Cố lưu Nam điện củng kim âu.
Ngóng đỉnh toan ngoan
Phe phẩy mái chèo, tuỳ thích cỡi thuyền dong chơi giữa duềnh,
Qua gần chân núi lại thấy cảnh càng vắng.
Mây thoảng qua, núi lộ mặt, thấy đá chơ vơ,
Những khối lèn dựng cao vút khi qua dưới, khách phải vếch trông.
Hoặc là hải thần Bằng Di đã dựng cột để chống trời nghiêng,
Hoặc là hải thần Long Nữ đã nối thêm cây nêu trỏ cung điện dưới bể.
Ý chừng vua Tần Thuỷ Hoàng chưa từng đi kinh lí đến chỗ này,
Vì trời vốn dành nó lại ở xứ Nam này để làm vững chắc cơ đồ nước ta.

Những bài thơ hay của Hồ Xuân Hương

Những tác phẩm tiêu biểu của Hồ Xuân Hương đã khiến nhiều kẻ sĩ thời ấy phải đau đầu với ngôn từ vượt lẽ thường. Đến nay, không ít nhà thơ, nhà văn vẫn sẵn lòng chắp bút, phân tích áng thơ của bà:

  1. Bánh trôi nước
  2. Cái nợ chồng con
  3. Mời ăn trầu
  4. Cái nợ chồng con
  5. Tát nước
  6. Đánh cờ người

Xem thêm các thông tin về nhà thơ Hồ Xuân Hương:

Kết luận

Các bài thơ của Hồ Xuân Hương luôn mang dấu ấn riêng biệt. Đến nay, mỗi khi đọc thơ của bà, người ta vẫn cảm nhận được cái chất rất “Xuân Hương” trong mỗi áng thơ.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *