Thơ song thất lục bát là gì? Tổng hợp những bài thơ hay nhất 

Thơ song thất lục bát thuộc nhóm những thể thơ truyền thống ở Việt Nam, có quy luật rõ ràng. Dạng thơ này được yêu thích vì có cách đặt vần thú vị, không cứng nhắc, giúp tác giả chạm đến trái tim người đọc.

Table of Contents

Song thất lục bát là thể thơ gì?

Thơ song thất lục bát là thể thơ có 2 câu 7 chữ (song thất), 1 câu 6 chữ (lục), 1 câu 8 chữ (bát). Cách gieo vần của thể thơ này rất được yêu thích:

  • Chữ cuối câu 7 trên vần với chữ thứ năm câu 7 dưới.
  • Chữ cuối câu 7 dưới vần với chữ cuối câu lục.
  • Chữ cuối câu lục vần với chữ thứ 6 câu bát.
  • Chữ cuối câu bát vần với chữ thứ 5 hoặc 3 của câu tiếp theo.
thơ song thất lục bát
Thơ song thất lục bát có 2 câu 7 chữ, 1 câu 6 chữ và 1 câu 8 chữ

So với cách làm thơ lục bát, thể thơ này có độ khó cao hơn về gieo vần. Nếu làm không chuẩn, bạn có thể khiến câu thơ không hài hòa, tạo cảm giác khó chịu cho người đọc.

Luật thơ song thất lục bát

Thể thơ song thất lục bát quy định luật rất rõ ràng, bạn chỉ cần tuân thủ đúng chữ được quy định trong từng câu. Những câu thơ cần gieo đúng niêm luật theo vị trí từng chữ là:

  • Câu bảy chữ thứ 2: Chữ thứ 3, 5, 7.
  • Câu 6 chữ: Chữ thứ 2, 4, 6.
  • Câu 8 chữ: Chữ thứ 2, 4, 6, 8 .

Các câu còn lại không được đề cập được sáng tạo tùy ý tác giả.Đây là một trong các loại thể thơ Việt Nam truyền thống  , được ông bà ta sử dụng nhuần nhuyễn.

Công thức vần thơ song thất lục bát là gì?

Cách làm thơ song thất lục bát đơn giản nhất là khi tuân thủ theo công thức:

Câu Vần
1 – – – – b – T
2 – – b – T – B
3 – b – t – B
4         – b – t – B – B
5 – – – – B – T
6 – – b – T – B
7 – b – t – B
8 – b – t – B – B

Ghi chú:

  • -: Không bắt buộc.
  • T: Vần trắc có thanh hỏi, ngã, sắc, nặng.
  • B: Vần bằng có thanh ngang (không dấu) hoặc huyền.
  • Chữ in hoa: Phải giữ vần đúng kiểu (in đậm hoặc không in đậm).

Giải đáp thắc mắc liên quan đến song thất lục bát là gì

Khám phá thể thơ song thất lục bát là gì, có rất nhiều câu hỏi thắc mắc được đặt ra. Cùng tìm ra lời giải để hiểu hơn về thể loại thơ này.

1/ Tác dụng của thể thơ song thất lục bát là gì?

Mang đến nhiều cảm xúc tác giả muốn gửi gắm, gieo vần thú vị, mang đến nét tươi mới. Dùng thể thơ này để thể hiện suy nghĩ sẽ giúp người đọc nhớ lâu hơn.

Thơ Đường Luật cũng là thể thơ có cách gieo vần thú vị, độ khó cao. Ngày nay không nhiều tác giả chọn viết thơ theo thể loại này như thế kỷ XVII, XVIII.

2/ Thể thơ song thất lục bát có số từ như thế nào?

Đặc điểm của thể thơ song thất lục bát về số từ là:

  • Câu 1: 7 chữ.
  • Câu 2: 7 chữ.
  • Câu 3: 6 chữ.
  • Câu 4: 8 chữ.

Nếu có nhiều hơn 4 câu, lần lượt các câu tiếp theo vẫn đúng quy luật 2 câu 7,  1 câu 6 và 1 câu 8.

3/ Cách nhận biết thể thơ song thất lục bát dễ nhất là gì?

Nhìn vào số từ trong 4 câu liên tiếp là cách đơn giản nhất để nhận biết. Sau đó, bạn có thể áp dụng luật vần để nhận định chính xác hơn.

Sưu tầm bài thơ song thất lục bát hay nhất của nhà văn, nhà thơ lớn

Các bài thơ song thất lục bát được gieo vần và thanh theo quy luật nên tạo nhịp điệu thú vị khi đọc. Mời bạn cùng tham khảo những bài thơ hay nhất, được nhiều người yêu thích.

1/ Gia huấn ca (Nguyễn Trãi)

Đặt quyển sách, vắt tay nằm nghĩ,
Hễ làm người dạy kỹ thì nên,
Phấn son cũng phải bút nghiên,
Cũng nhân tâm ấy há thiên lý nào.

thể loại thơ song thất lục bát là gì
Bài thơ Gia Huấn Ca của tác giả Nguyễn Trãi

Nhân thong thả lựa vần quốc ngữ,
Làm bài ca dạy vợ nhủ con:
Lời ăn nết ở cho khôn,
Chớ nên đa quá, đa ngôn chút nào!
Ăn mặc chớ mỹ miều chải chuốt,

Hình dung đừng ve vuốt ngắm trông,
Một vừa hai phải thì xong,
Giọt dài giọt ngắn cũng không ra gì
Khi đứng ngồi chứ hề lơ lẳng,
Tiếng nhục nhằn nữa nặng đến mình,

Hạt mưa chút phận lênh đênh,
Tấm son tạc lấy chữ trinh làm đầu.
Kìa mấy kẻ làu làu tiết ngọc,
Đem sắt đanh nguyện lúc lửa châm.
Con hiền cha mẹ an tâm,

Một nhà khen ngợi, nghìn năm bia truyền.
Nọ những kẻ nước nguyền non hẹn,
Thấy mùi hoa bướm nghển, ong chào,
Miệng đời dê diếu biết bao,
Đông ra quốc pháp, nhục vào gia thanh

Đem người trước lấy mình ngắm lại,
Khôn ba năm đừng dại một giờ,
Đua chi chén rượu câu thơ,
Thuốc lào ngọt nhạt, nước cờ thấp cao.
Đám dồi mỏ ra vào săn sóc,

Lại bài phu, tam cúc, đánh đinh,
Đố mười, chẵn lẻ, đố kinh,
Tổ tôm, kiệu chắn, sám quanh tứ chiều.
Đi đứng đắn, chớ điều vùng vẫy,
Khi tối tăm đèn phải phân minh,

Hoặc khi hội hát linh đình,
Được lời dạy đến thì mình hãy ra,
Ra phải có mẹ già em nhỏ,
Đừng đánh đàn, đánh lũ không hay.
Nói đừng chau mặt, chau mày,

Nghe ra ngậm đắng nuốt cay hay nào!
Của tằn tiện, chắt chiu hàn gắn,
Khách buôn tàu chưa hẳn nơi đây!
Cũng đừng vắt nước cổ chày,
Tiếp tân tế lễ là ngày nên hoang.

Ăn ở chớ lòng mang khoảnh khắc,
Mua bán đừng điêu trác đong đưa.
Mua đừng ráo riết quá lừa,
Bán đừng bo xiết, ích ta hại người.
Chớ tắt mắt của người kém cỏi,

Đừng đảo điên có nói làm không.
Giàu sang cũng chớ khoe ngông,
Miễn mình ấm phận chớ lòng khinh ai.
Khó khăn chớ vật nài oán hối,
Hết bĩ rồi tới buổi thái lai

Cầm cân, tạo hóa đổi dời,
Giàu ba họ, khó ba đời mấy ai ?
Đừng học cách tham lời đặt lãi,
Lợi kẻ cho thì hại kẻ vay,
Dễ dàng nợ phải lay nhay,

Đến đầu đũa quá, e cay đắng nhiều.
Hoặc lỡ thiếu phải điều lĩnh tạm,
Dù ít nhiều liệu sớm tính xong,
Chẳng nên mê mẩn hơi đồng,
Qua lần cho khỏi thì lòng mới nguôi.

Thói mách lẻo, ngồi rồi bỏ hết,
Hễ điều gì nói ít mới hay,
Lân la giắt rợ, giắt rây,
Đã hư công việc, lại dày tiếng tăm.
Việc chợ búa chăm chăm chúi chúi,

Buổi bán xong liệu vội ra về,
Cửa nhà trăm việc sớm khuya,
Thu va thu vén mọi bề mới xong.
Phòng những kẻ có lòng gian vặt,
Nhỡ xảy ra một mất mười ngờ,

Tiếc thầm đứng ngẩn, ngồi ngơ,
Đau buồn thôi lại đổ cho tại trời.
Từ chốn ở, nơi ngồi thay thảy,
Rác ngập đường nhìn vậy chan chan,
Ai vào rác ngập ước chân,

Bát mâm tơi tả chiếu chăn đầy giường,
Tuy khó rách, giữ gìn thơm sạch,
Có hay gì chiếu lệch bụi nhơ,
Đồ ăn thức nấu cho vừa,
Thường thường giữ lấy muối dưa ngon lành.

Nghề bánh trái chiều thanh vẻ lịch,
Cũng học dần thói cách người ta,
Vá may giữ nếp đàn bà,
Mũi kim nhỏ nhặt mới là nữ công.
Thủa tại gia phải tòng phụ giáo

Khi lấy chồng giữ đạo chính chuyên
Lại là hiếu với tổ tiên,
Những ngày giỗ tết không nên vắng nhà.
Đồ cúng cấp hương trà tinh khiết,
Theo lễ nghi khép nép, khoan thai,

Ăn nhiều ăn ít cho rồi,
Nhớ điều ghẻ lạnh lễ thôi lại về.
Dù nội, ngoại hai bề cũng vậy,
Đừng trành hanh bên ấy, bên này,
Cù lao đội đức cao dày

Phải lo hiếu kính đêm ngày khăng khăng.
Bởi thương đến mới năng mắng quở,
Muốn cho ta sáng sủa hơn người,
Ân cần kẽ tóc, chân tơ,
Tấm lòng chép để mấy lời tạc ghi.

Đừng nặng nhẹ, tiếng chì tiếng bấc,
Đừng vùng vằng mặt vực, mặt lưng,
Có thì sớm tiến trưa dâng,
Cơm ngon canh ngọt cho bằng chị em.
Dù chẳng có thì yên một phận,

Người trên ta há giận ta sao!
Hoặc khi lầm lỗi điều nào,
Đánh đằng cửa trước, chạy vào cửa sau.
Khi ấm lạnh ta hầu coi sóc,
Xem cháo cơm, thang thuốc mọi bề,

Ra vào thăm hỏi từng khi,
Người đà vô sự, ta thì an tâm.
Việc báo hiếu phải chăm chữ hiếu,
Kiệm hay phong cũng liệu tùy ngơi.
Đừng điều tranh cạnh chia bai,

Xấu trong làng nước, để cười mai sau.
Đạo vợ chồng tình sâu nghĩa ái,
Lại chẳng nên mặt tái, mày tăm,
Chuyện đâu bỏ đấy cho êm
Đừng đem bên ấy về gièm bên ta.

Sách có chữ “nhập gia vấn húy”,
Khi nói năng phải kỹ kiêng khem,
Dịu dàng tiếng thuận lời mềm,
Cứ lời chồng dạy mới yên cửa nhà.
Chớ nên cậy mình ta tài sắc,

Chồng nói ra nhiếc móc chê khen.
Nói càn như ở bậc trên,
Thường khi động đến tổ tiên quá lời.
Cơn giận đến, sự đời ngang ngửa,
Dở dói ra nát cửa tan nhà,

Chữ “tùy” là phận đàn bà,
Nhu mì để dạ, chua ngoa gác ngoài.
Dù lỗi phận gặp người tửu sắc
Hay gặp người cờ bạc lưu liên,
Nhỏ to tiếng dịu lời êm

Dần dà uốn mãi may mềm được chăng!
Phải chồng ngược, cắn răng chịu khổ,
Chớ nghiêng đầu, ngảnh cổ thiệt thân,
Duyên may gặp được văn nhân,
Thuộc câu “tương kính như tân” làm lòng.

Nghiệp đèn sách khuyên chồng sập sã,
Tiếng kê minh gióng giả đêm ngày,
Khuyên chồng nhớ đến đạo thầy,
Vật dâng lớn nhỏ gọi nay lễ thường.
In lấy chữ tao khang chi nghị,

Đừng mang câu đố kỵ chi thường.
Dây bìm cho tựa cành vàng,
Trước chàng đẹp mặt, sau nàng đỡ tay.
Câu “đường cái” xưa nay cũng vậy,
Trai làm nên lấy bảy lấy ba,

Lấy về hầu hạ nhà ta,
Thêm hòe, nẩy quế có là con ai ?
Cũng da thịt cũng tai mắt thế,
Kém ta nên phận ế hoa ôi,
Nghĩ tình ăn cạnh nằm ngoài,

Ấm no nên xót lấy người bơ vơ
Thế mới phải phép thờ phu tử,
Ấy mới là đạo xử hài hòa,
Chữ “tùy” rắn khúc nghi gia.
Môn đường thong thả, một nhà vẻ vang.

Kìa những đứa mặt thường cau có,
Khách đến nhà chửi chó mắng mèo,
Cất lời nặng cỡ đá đeo,
Đã ra thét tớ lại vào mắng con.
Khách về đoạn sợ mòn mất chiếu,

Chồng ra đường chẳng kẻo mặt mo!
Hễ ngày bạn hữu giao du,
Sai người trải chiếu, sắp đồ tiếp ra.
Dù trăm giận thì ta để bụng,
Có trọng người mới trọng chồng ta.

Tùy người thết đãi rượu trà,
Nhớ rằng: Của gửi chồng ta đi đường!
Ấy là vẹn cương thường bằng hữu,
Lại phải tường trong đạo chị em,
Đạo em thì phải trông lên,

Đạo chị trông xuống cho êm đẹp chiều.
Miếng bùi ngọt chia đều như một,
Khi nắng mưa, ấm sốt đỡ tay,
Với nhau như bát nước đầy,
Lá lành đùm bọc bóng cây rườm rà!

Đạo thúc tẩu một nhà minh bạch.
Lánh hiềm nghi tăm tích rõ ràng,
Trộm trông bóng đuốc Vân Trường,
Nức danh ba nước treo gương muôn nhà.
Cả trong ngoài cùng là đàn cháu,

Xem như con yêu dấu chẳng sai,
Đồng quà, tấm bánh hôm mai,
Chớ điều dằn vật, chớ lời gieo đanh.
Từ họ mạc, láng giềng, hàng xóm,
Cũng ở cho trong ấm ngoài êm,

Tiếng chào, tiếng hỏi cho mềm,
Chẳng khinh ai cũng chẳng hiềm oán ai.
Ắy ngôn hạnh các lời hằng giữ,
Lại cần điều cư xử cho tuyền,
Hễ ngày sóc, vọng, hối, huyền,

Cùng ngày nguyệt tín phải khuyên dỗ chồng.
Khi thai sản trong phòng gìn giữ,
Học cổ nhân huấn tử trong thai,
Dâm thanh chớ để vào tai,
Ác ngôn chớ chút bợn lời sam sưa!

Từ xuất nhập, khởi cư, hành động,
Có lễ nghi nghiêm trọng đoan trinh
Đứng ngồi chính đại quang minh,
Cho bằng phẳng thế, chớ chênh lệch mình.
Chớ vin cao cũng đừng mang nặng,

Đừng ăn đồ cay đắng canh riêu,
Đừng ăn ít, chớ ăn nhiều,
Nuôi từ trong dạ khỏi điều lo xa.
Khi sinh nở thai hòa vô sự,
Cẩn từ khi trong cữ ngoài tuần.

Chiều sương chớ để áo quần,
Đỉnh đầu phải cúi, bước chân phải dò.
Nơi bếp vách đừng cho hơ lửa,
Ngọn đèn hoa chớ quở quá ngôn,
Kiêng khem trăm sự vuông tròn,

Trước mình yên dạ, sau con ít sài.
Ngày con đã biết chơi biết chạy,
Đừng cho chơi cầm gậy, trèo cao,
Đừng cho chơi búa chơi dao,
Chơi vôi, chơi lửa, chơi ao có ngày.

Lau cho sạch không hay dầm nước,
Ăn cho vừa, đừng ước cao lương,
Mùa đông tháng hạ thích thường,
Đừng ôm ấp quá, đừng suồng sã con.
Dạy từ thủa hãy còn trứng nước,

Yêu cho đòn bắt chước lấy người,
Trình thưa, vâng dạ, đứng ngồi,
Gái trong kim chỉ, trai ngoài bút nghiên.
Gần mực đen, gần đèn thì sáng,
Ở bầu tròn, ở ống thì dài,

Lạ gì con có giống ai,
Phúc đức tại mẫu là lời thế gian.
Làm mẹ chớ ăn càn, nói dở,
Với con đừng chửi rủa quá lời,
Hay chi thô tục những người,

Hôm nay cụ cụ, ngày mai bà bà.
Gieo tiếng ra chết cây, gãy cối,
Mở miệng nào có ngọn có ngành,
Đến tay bụt cũng không lành,
Chồng con khinh rẻ, thế tình mỉa mai!

Ấy những thói ở đời ngông dại,
Khôn thì chừa, mới phải giống người,
Sinh con thì dạy thì nuôi,
Biết câu phải trái lựa lời khuyên răn.
Tuổi cả khôn, hôn nhân trạch phối,

Giàu đừng tham, khó đói chớ nề,
Dâu hiền, rể thảo tìm về,
Xem tông xem giống kẻo mê mà lầm.
Xử với rể một niềm kính trọng,
Dù dở hay, đừng giọng mỉa mai,

Với dâu, dạy bảo phải lời,
Bắt khoan bắt nhặt, biết ai cho vừa!
Gương giáo tử nhường đưa mặt nhận,
Mực trì gia đặt hẳn ân uy.
Bọt bèo là phận nô tỳ,

Dạy nghiêm, ở thảo hai bề vẹn hai.
Có câu ví “Chiều người lấy việc”,
Chẳng há nên ráo riết người ta.
Hay thì nó ở lâu ra,
Dở thì nó bước nào ta bận gì.

Một đôi kẻ phải khi lỡ độ,
Có thì cho chẳng có thì thôi.
Chẳng nên nhiếc mắng nhiều lời,
Cơ hàn hầu dễ có ai muốn gì.
Trong nhà vận thịnh suy có mệnh,

Đạo quỉ thần thì kính viễn chi,
Nắng mưa giải kiết có khi,
Phải chăm cơm thuốc, đừng mê cốt thầy.
Nhà chẳng quét, quét hay có rác,
Đã bói ra, bỏ nhác sao đành,

Cao tay mấy kẻ có danh,
Bùa bèn chẳng bỏ là tinh hiện vào.
Suy cho thấu, tà nào phạm chính,
Cứ thánh kinh cảnh tỉnh dị kỳ,
Kìa như mấy kẻ tăng, ni,

Thôi tuần cúng Phật, lại khi vào hè.
Nam mô phật rù rì hai chữ,
Đua nhau rằng tín nữ thiện nam,
Miệng rằng chừa độc chừa dâm,
Tay lần tràng hạt dao găm một bồ.

Kẻ trốn việc ở chùa cũng có,
Kẻ lộn chồng, trốn chúa cũng nhiều,
Gian ngoan rất mực làm kiêu,
Mượn danh Hòa thượng, lợi điều tham dâm.
Chẳng qua lũ ngu dân hoặc thái,

Phúc đức đâu nghĩ lại mà coi.
Trước sau có bấy nhiêu lời,
Bảo nhau gìn giữ nên người thơm danh.
Dù ai nấy có tình chẳng cứ,
Thói Thọ Dương vẫn giữ không chừa,

Ngày ngày mắng sớm đòn trưa,
Thường thường dạy dỗ mà ra tuồng gì.
Cành kia lớn sợ khi khó nắn,
Sắt nọ mài ắt hẳn nên kim,
Diễn nôm cho tiện mà xem,

Dạy nhà trước đã mới đem dạy người.
Lấy điều ăn ở dạy con,
Dẫu mà gặp tiết nước non chuyền vần.
Ở cho có đức có nhân,
Mới mong đời trị được ăn lộc trời.

Thương người tất tả ngược xuôi,
Thương người lỡ bước, thương người bơ vơ.
Thương người ôm dắt trẻ thơ,
Thương người tuổi tác già nua bần hàn.
Thương người quan quả, cô đơn,

Thương người lỡ bước lầm than kêu đường.
Thấy ai đói rách thì thương,
Rách thường cho mặc, đói thường cho ăn.
Thương người như thể thương thân,
Người ta phải bước khó khăn đến nhà.

Đồng tiền bát gạo mang ra,
Rằng đây “cần kiệm” gọi là làm duyên
May ra ở chốn bình yên,
Còn người tàn phá chẳng nên cầm lòng.
Tiếng rằng; ngày đói tháng đông,

Thương người bớt miệng bớt lòng mà cho
Miếng khi đói, gói khi no,
Của tuy tơ tóc, nghĩa so nghìn trùng.
Của là muôn sự của chung,
Sống không, thác lại tay không có gì.

Ở phải có nhân có nghì,
Thơm danh vả lại làm bia miệng người.
Hiền lành lấy tiếng với đời,
Lòng người yêu dấu, là trời hộ ta.
Tai ương hoạn nạn đều qua,

Bụi trần giũ sạch thực là từ đây.
Vàng trời tuy chẳng trao tay,
Bình an hai chữ xem tày mấy mươi.
Mai sau bạc chín tài mười,
Sống lâu ăn mãi của đời về sau.

Kìa người ăn ở cơ cầu,
Ở thì chẳng biết về sau phòng mình,
Thấy ai đói rách thì khinh,
Cách nào là cách ích mình thì khen.
Hứng tay dưới với tay trên,

Lọc lừa từng tí, bon chen từng đồng!
Ở thì phất giấy đan lồng,
Nói thì mở miệng như rồng như tiên.
Gan thì quá ngỡ sắt đèn,
Miệng thơn thớt nghĩ rơi tiền bạc ra.

Mặt lành khéo nói thực thà,
Tưởng như xẻ cửa xẻ nhà cho nhau.
Ở nào mùi mẽ chi đâu,
Như tuồng cuội đất giấu đầu hở đuôi.
Nói lời lại nuốt lấy lời,

Một lưng bát xáo mười voi chưa đầy.
Cho nên mới phải lúc này:
Cửa nhà tàn phá phút rày sạch trơn.
Kẻ thì mắc phải vận nàn,
Cửa nhà một khắc lại tàn như tro.

Kẻ thì phải lính, phải phu,
Đem mình vào chốn quân gia trận tiền.
Kẻ thì mắc phải dịch ôn,
Kẻ thì thủy hỏa gian nan kia là!
Thấy người mà phải lo ta,

Sờ sờ trước mắt thực là thương thay,
Khuyên ai chớ bắt chước rày,
Ở lòng nhân nghĩa cho đầy mới khôn.
Lời cha dạy bảo nỉ non,
Trước sau ghi chép khuyên con nghe lời.

Nghe thì mới phải là người,
Chẳng nghe thì cũng là đời bỏ đi.
Phận làm gái ở cùng cha mẹ,
Lòng phải chăm học khéo học khôn,
Một mai xuất giá hồi môn,

.. (thiếu một câu)
Phận bồ liễu giá trong như ngọc,
Khéo là khéo bánh trong, bánh lọc,
Lại ngoan nghề dệt vóc, may mền.
Khôn là khôn lẽ phải, đường tin,

Lại trọn đạo nâng khăn sửa túi.
Khôn chẳng tưởng mưu lừa chước dối,
Khéo chẳng khoe vẻ lịch, chiều trai.
Xưa nay hầu dễ mấy người,
Miệng khôn, tai khéo cho ai được nhờ.

Phận làm gái này lời giáo huấn,
Lắng tai nghe cổ truyện mới nên,
Hãy xem xưa những bậc dâu hiền,
Kiêm tứ đức: dung, công, ngôn, hạnh,
Công là đủ mùi xôi, thức bánh,

Nhiệm nhặt thay đường chỉ mũi kim.
Dung là nét mặt ngọc trang nghiêm,
Không tha thiết, không chiều lả tả.
Ngôn là dạy trình thưa vâng dạ,
Hạnh là đường ngay thảo kính tin.

Xưa nay mấy kẻ dâu hiền,
Dung, công, ngôn, hạnh là tiên phàm trần.
Phận con gái ở nhà thi lễ,
Lắng mà nghe kể chuyện tam cương:
Dẫu ái ân cùng chiếu cùng giường,

Đạo chồng sánh quân thân chi đạo,
Làm tôi con chỉ trung chỉ hiếu,
Làm dâu thì chỉ kính mới nên.
Chớ khoe khoang mình bạc mình tiền,
Đừng đỏng đảnh cậy khôn cậy khéo.

Bề thiếp phụ thuận tòng là điệu,
Cũng như bên thờ chúa thờ cha,
Muôn nghìn đừng thói kiêu ngoa,
Mắng ta không giận, yêu ta không nhờn.
Quyền mệnh phụ là mình làm chủ,

Trong đại hôn áo mũ thân nghênh,
Kính người vợ phép ở Lễ Kinh
Chức phận phải chăm bề tần tảo,
Trong khuê khổn giữ gìn khăn áo,
Trên từ đường trăm việc trơn tru.

Từ cơm, canh, cá, thịt, mọi đồ,
Dẫu nhiều ít sửa cho trong sạch.
Bằng nhường ấy thần minh lai cách,
Câu “hữu trai” nên tiếng để đời,
Hoa thơm ai nỡ bỏ rơi,

Người khôn ai nỡ nặng lời đến ai.
Bề nội trợ việc trong xem xét,
Siêng năng thì trăm việc đều nên,
Chớ khoe khoang lắm thóc nhiều tiền,
Ngồi ăn mãi non mòn núi lở.

Việc nhà có kẻ ăn người ở,
Từ trong ngoài như bảo trước sau,
Đồ làm ăn, ngày để đâu đâu,
Ban tối phải thu về cho đủ.
Trống canh một chớ đà vội ngủ,

Siêng năng thì chăm chú việc ta.
Lũ nô tỳ trai gái năm ba,
Cơm chưa chín không nên khua xáo.
Đứa xay thóc, đứa thì gĩa gạo,
Đứa bếp thì chủ việc cơm.

Ăn đoạn rồi cho chúng nghỉ ngơi,
Đèn ta sẽ soi trong bếp lại.
Đùng tin trẻ tôi đòi thơ dại,
Lời dạy rắng “giữ lửa chẳng chơi”.
Cho hay đại phú bởi trời,

Nhưng mà ở thế thì người hết chê.
Cầm then khóa giữ bề thu phát,
Chắt chiu mà dè dặt mới nên,
Coi sóc từ hạt gạo đồng tiền,
Đừng cậy có ăn càn, tiêu dở.

Bữa thường phải xem cho con ở,
Cũng đừng thừa, chớ thiếu làm chi.
Kẻ lân bang đến một đôi khi,
Đồ thết đãi xem cho tử tế.
Trong nhà phải bảo nhau có ý,

Đừng chửi mèo, mắng chó mà chi.
Trong anh em thiên tải nhất thì.
Sang vì vợ nhưng giàu vì bạn.
Chiều rộng hẹp tùy cơ ứng biến,
Đạo trì gia đãi khách khác màu,

Trần trần một mực nên đâu,
Phô loài bồ các biết đâu lẽ gì,
Phận là gái về làm dâu cả,
Việc ta chăm giữ chốn từ đường,
Lấy ngọn tần, lá tảo lễ thường

Kìa hiếu dưỡng Thành Chu gia pháp.
Tôn tộc đến những khi kỵ lạp,
Xem bằng nhường quí khách, gia tân.
Có chữ rằng: “đạo trọng thân thân”,
Dễ mấy thủa đông như ngày giỗ.

Lúc lễ tất lẻn vào dọn cỗ,
Hãy pha trà tiếp đãi cho xong,
Bữa thường dù dưa muối mặc lòng,
Khi có họ xem cho tử tế,
Nước đã đoạn rượu liền nhân thể,

Giục tiểu hầu bưng cỗ tiếp ra.
Nhà dưới ta mời họ đàn bà,
Coi sóc hỏi họ hàng con cháu.
Không bỏ sót là tình yêu dấu,
Ai chẳng khen hiền đức phụ nhân,

Trọn đời đẹp mặt phu nhân,
Vì chưng chủ phụ thân thân biết điều.
Bề phụng dưỡng đôi bên cha mẹ,
Muôn một khi đá đổ bồ hôi,
Nghĩ xa lo đứng lo ngồi,

Chẳng còn tưởng đến tham công tiếc việc.
Đường điều hộ tiền không dám tiếc,
Mặc phu quân giữ việc thuốc thang,
Song ta nâng giấc giữ giàng,
Điều ăn uống phải hỏi han tùy thích.

Lòng người ước chim, gà, cá, thịt,
Của nên ăn dù đắt cũng mua.
Tùy người ưa thức ngọt chua,
Nhưng gia vị phải mong cho đủ mùi.
Xem quần áo nên thay kẻo bẩn,

Lòng yêu thân phải cẩn từng khi,
Tấm lòng trời đất chứng tri,
Dâu hiền có hiếu, tiếng ghi để đời.
Này con gái thuộc về khôn đạo,
Khôn đức nhu nết gái dịu dàng,

Một đôi khi chân bước ra đường,
Bề tôn trưởng thì lòng kính nhượng.
Dù chẳng phải là ta hơi hướng,
Nghĩa hương lân phải cất tiếng chào.
Bằng thấy người đầu bạc tuổi cao,

Có mang đội trình đòi nâng đỡ.
Thì miệng lưỡi chê bai ai nỡ,
Ở trên đời gái ở nết na
Con hiền đẹp mặt mẹ cha,
Chồng hòa yêu chuộng, họ hòa kính chung.

Dạy những kẻ đàn bà con gái,
Gặp phải chồng cờ bạc rượu chè,
Nay ông tơ, bà nguyệt trót xe,
Duyên phận ấy trót làm sao được.
Ở là phải tìm mưu giả chước,

Ngọt lời khuyên lâu cũng phải nghe,
Lúc ham mê cơm rượu say nhè,
Hãy cơm cháo trọn bề phụ đạo.
Chớ vợ nghiến chồng, thêm trân tráo,
Như chuyện chi lửa cháy dầu thêm,

Chẳng bằng khi chăn ấm chiếu êm,
Hãy năn nỉ đường khôn lẽ phải.
Bề ân ái vợ chồng là ngãi,
Dẫu giàu ăn, khó chịu cho cam.
Hay gì yến bắc, nhạn nam,

Khăng khăng một tiết cho cam sở nguyền.
Đạo vợ chồng là duyên kim cải,
Vốn trời sinh bể ái nguồn ân,
Kìa ai nổi trận phong vân
Cũng vì gái nhiều phần nhầm lỗi.

Phận là gái ít đường giáo hối,
Thấy chồng yêu dễ lấy làm nhờn,
Miệng sai ngoa nói những giọng càn,
Bụng kiêu ngạo một ngày một sính,
Đạo cha mẹ đã không biết kính,

Bề anh em lại chẳng hay nhường,
Chua chát thay những tính cương cường
Ai là đá ru mà chịu vậy!
Đường gia pháp không ăn lời dạy,
Việc giáo hình đến phải ra tay,

Hổ thân tiếng khắp đông tây,
Nông nỗi ấy hết đương khôn khéo.
Khuyên những các đào tơ liễu yếu,
Lấy làm gương chớ bắt chước chi,
Một niềm kính thuận vô vi,

Trước là khỏi nhục, sau thì nên danh,
Thương những kẻ đàn bà mất dạy,
Lại gặp chồng sợ vợ như ma,
Trách chi mà chẳng thói kiêu ngoa,
Những lừa cạnh, phô sòng, làm lệ.
540Bề họ mạc không hay kính nể,
Nghĩ bon chen tiền bạc là khôn,
Đường gia tài khôn biết vén vun,
Nghĩ tha thướt áo quần là khéo,
Gà eo óc, phòng loan uốn éo,

Bầng mắt ra đã tỏ vầng ô,
Việc trong ngoài khí dụng các đồ,
Mặc con cái gặp sao hay vậy,
Bề nội ngoại những phô loài ấy.
Phúc đức kia còn nói làm chi,

Khen cho bà nguyệt khéo xe,
Anh này sánh với chị kia đương vừa.
Vợ chồng ta tơ hồng vấn vít,
Nhân duyên này bà nguyệt khéo xe.
Trình anh thân thiếp vụng về,

Yêu thì nên tốt chớ nề ngu si,
Quản bao lỗi nọ, lầm kia,
Chiều thanh vẻ quí dám bì được đâu.
Thiếp vâng lời dạy trước sau,
Nguyện xem then khóa, giữ hầu áo khăn.

Trước là thờ phụng tiền nhân,
Sớm thăm tối viếng ân cần đỡ anh.
Bốn phương chàng hãy kinh doanh,
Dùi mài kinh sử tập tành cung tên.
Công danh mong đợi ơn trên,

Còn trong trần lụy hãy xin dấu mầu.
Gửi trình dễ dám khuyên đâu,
Sắc phòng thương thận, rượu hầu thương tâm
Thiếp xin chàng chớ đăm đăm,
Những nơi cờ bạc chớ ham làm gì.

Thế gian lắm kẻ điên mê,
Áo quần lam lũ người thì như ma.
Thiếp xin chàng lánh cho xa,
Một niềm trung hiếu để mà lập thân.
Bấy lâu những đợi long vân,

Đào tơ, liễu yếu gửi thân anh hùng.
Xưa nay gái đội ơn chồng,
Hiển vinh bõ lúc cơm sung, cháo dền.
Ơn trời công đã được đền,
Chàng nên quan cả, thiếp nên hầu bà!

Nào là những kẻ học trò,
Nghe lời thầy dậy phải lo sửa mình.
Nghĩa cha sinh cùng công mẹ dưỡng,
Thời đêm ngày tư tưởng chớ khuây,
Hai công đức ấy nặng thay,

Xem bằng bể rộng, coi tày trời cao!
Trình vâng từ tốn ngọt ngào,
Đi về thưa thốt, ra vào thăm lênh.
Bánh quà, cá thịt, cơm canh,
Sớm trưa thay đổi để dành hẳn hoi.

Bữa thường dâng ngọt dâng bùi,
Nâng niu chào hỏi chẳng sai đâu là.
Nghĩ công khó nhọc nuôi ta,
Đến ngày cả lớn mong cho vuông tròn,
Kể từ lúc hãy còn thai dựng,

Đến những khi nuôi nấng giữ giàn
Nặng nề chín tháng cưu mang,
Công sinh bằng vượt bể sang nước người.
Đoạn thôi lúc ấy vừa rồi,
Ấp ôm bú mớm chẳng rời trên tay.

Mong cho biết ngửa biết ngây,
Biết chuyện biết hóng chẳng khuây bao giờ,
Ngày trứng nước, thủa ngây thơ.
Bao giờ sài ghẻ bấy giờ lại lo.
Lo cho biết lẫy, biết bò,

Mong cho biết đứng, mong cho biết ngồi.
Đoạn rồi lại lo khi xảy đậu,
Công, dại, ngây, thơ ấu, u ơ.
Ba năm nhũ bộ còn thơ,
Kể công cha mẹ biết cơ ngần nào ?

Chữ rằng “sinh ngã cù lao”,
Bể sâu khôn ví, trời cao khôn bì.
Nhưng mà gặp buổi bình thì,
Tiền trăm, bạc chục việc gì mà lo!
Hay là gặp cửa nhà giàu,

Của chìm của nổi dễ hầu lo chi!
Song ta vốn đã hàn vi,
Lại sinh ra gặp phải thì can qua.
Đòi khi kém đói thiết tha,
Bán buôn tần tảo cho qua lúc này.

Việc nhà việc cửa chuyên tay,
Khi đêm quên ngủ, khi ngày quên ăn.
Ngược xuôi gánh vác nhọc nhằn,
Chân le, chân vịt nào phần khoan thai.
Hình dung ăn mặc lôi thôi,

Áo thời xốc xếch, khố thời đuôi nheo.
Gian nan đòi đoạn ngặt nghèo,
Mà cho con học có chiều bao dong.
Thế gian mấy kẻ có lòng,
Có công trời hẳn dành công để chờ.

Bây giờ loạn lạc bơ vơ,
Cơ trời bĩ thái nắng mưa là thường.
Khuyên con học lấy văn chương,
Có bên nghĩa lý, có đường hiển vinh.
Loạn rồi lại có khi bình,

Khi bình ta hãy cá kình giương vây.
Say sưa kinh sử chớ khuây,
Sắt mài ắt hẳn có ngày nên kim.
Mãi Thần kia mới là gan,
Trèo non kiếm củi, đốt than dãi dầu.

Bể thánh sâu, cố gia công lội,
Rừng nho gai, thẳng lối xông pha,
Ba năm chợt đổi khôi khoa,
Sân rồng ruổi ngựa, đường hoa giong cờ.
Trần Bình nhà bạc cửa thưa,

Đói no chẳng quản, muối dưa chẳng nề.
Đọc sách là chí nam nhi,
Giúp Lưu trót đã lục kỳ nên công.
Lọng giương, ngựa cưỡi, xe giong,
Bể sâu cá nhảy vẫy vùng bõ khi.

Ấy là thủa trước nam nhi,
Bây giờ đèn sách sớm khuya thế nào ?
Chữ rằng: “loạn độc thư cao”,
Khi nên cũng thế, khác nào người xưa.
Nắng lâu cũng có khi mưa,

Trồng dưa thì lại được dưa nệ gì.
Mai ngày treo biển tên đề,
Khôi khoa lại được gặp kỳ thánh minh.
Lộc trời, tước nước hiển vinh,
Báo đền đôi đức dưỡng sinh bấy chầy.

Bõ khi nghèo khổ chua cay,
Bõ khi đèn sách, bõ ngày gian truân.
Bệ rồng gang tấc chín lần,
Trong triều mực thước, ngoài dân quyền hành.
Một triều là một thanh danh,

Bởi chưng có chí học hành thì nên.
Bao nhiêu là gái thuyền quyên,
Lưng ong má phấn cũng chen chân vào.
Đã má đỏ, lại má đào,
Thơm tho mùi xạ ngạt ngào mùi hương.

Đủ mùi những thức cao lương,
Sơn hào hải vị bữa thường đổi trao.
Lợn quay, xôi gấc, chè tàu,
Ai ai là chẳng đến hầu làm tôi.
Quạt lông, gối xếp, thảnh thơi,

Một lời dạy đến, trăm người dạ vâng.
Tiếng đàn, tiếng địch, tưng bừng,
Câu thơ, câu phú lại dâng chén quỳnh.
Trong ngoài quan khách linh đình,
Treo chông nội thất, truyền sênh công đường.

Phấn trần, tranh cánh, giá gương.
Khi buông màn vóc, khi giường chiếu hoa.
Người hầu, người hạ, nhởn nhơ,
Thắm chen vẻ tía, vàng pha màu hồng.
Nhà ngang dãy dọc trùng trùng,

Hầu non: con mới, tiểu đông: thằng tranh.
Trai khoe lịch, gái khoe thanh,
Ra vào hài hán, chung quanh dập dìu!
Giàu sang khác vẻ trăm chiều,
Vì ơn cha mẹ lắm điều vì ta.

Nghĩa thứ ba là trong thầy tớ,
Dạy mấy lời phải nhớ đinh ninh.
Nghĩa dưỡng sinh hiếu trung là thế
Đường công danh có chí thì nên.
Trước cửa Khổng cung tường chín chắn.

Bước lên đường vào cửa ung dung,
Trăm quan, tôn miếu, lạ lùng,
Học hành cho biết thỉ chung tỏ tường.
Bẩm phi thường khác hơn mọi vật,
Ắt làm người thời chẳng hư sinh.

Phú cho tai mắt thông minh,
Tính tình gồm đủ kiếp sinh vẹn tuyền.
Bực thánh hiền ấy không dám ví,
Song làm người có chí thì nên,
Khai tâm từ thủa thiếu niên,
705Hiếu kinh tiểu học trước liền cho thông.
Đọc cho đến Trung dung, Đại học,
Tứ thư rồi lại đọc ngũ Kinh,
Thi, Thư, Dịch, Lễ, đều tinh,
Xuân thu nghĩa cả cho minh nghiệp nhà.

Xem cho đến Bách gia, Chư tử,
Bảy mươi pho sử đều thông,
Sớm khuya ở chốn văn phòng,
Bút nghiên, giấy mực bạn cùng chân tay.
Bài kinh nghĩa cùng bài văn sách,

Tinh phú, thơ, mọi vẻ văn chương.
Một đèn, một sách, một giường,
Có công mài sắt có ngày nên kim.
Học trò giữ chính tâm làm trước,
Với tu, tề, bình, trị đều yên,

Cương thường giữ hiếu làm nên,
Từ đoan, ngũ giáo cho tuyền công sinh.
Bề đạo đức, gia đình phải giảng,
Phủ thiên quân quang đãng tinh vi.
Lý cho cách vật, trí tri,

Trong thì dưỡng đức, ngoài thì tu thân.
Nghiệp tứ dân nhất rằng chữ sĩ,
Nghề nông, thương, công cổ khôn sơ,
Đạo thầy thứ nhất là Nho,
Toán, y, lý, số dám so sánh bài.

Khắp triều đình trong ngoài lớn nhỏ,
Những là người áo mũ đai cân,
Đời nào cũng chuộng nghề văn,
Mưu mô giẹp loạn, kinh luân mở nền
Pho kinh sử làu chuyên nghề học,

Chốn thư đường từng đọc hôm mai,
Quan sang chẳng có riêng ai,
Đạo trời nào phụ những người độc thư.
Kìa trước hết văn nho sĩ tử,
Dẫu khó khăn kinh sử càng chuyên,

Làm nên trọng chức cao quyền,
Trong ngoài ai chẳng ngợi khen bậc hiền.
Nhặt lấy cỏ bồ biên mà đọc,
Người Ôn Thư chí học mới cao.
Chàng Hoằng không sách biết sao.
745 Mượn kinh mà học viết vào mảnh tre.
Dùi đâm vế kẻo khi buồn ngủ,
Ngươi Tô Tần chí thú đọc kinh,
Tóc treo giường ấy, Tôn sinh,
Để cho dễ thức học hành canh khuya.

Thủa dầu hết đèn hoe bóng tuyết,
Chàng Tôn Khang chịu rét đêm đông,
Nọ ngươi Trác Dận dầu không,
Túi bao đom đóm bạn cùng thư trai.
Vai gánh củi học thời luôn miệng,

Chu Mãi Thần nên tiếng danh nho,
Lý sinh chẳng quản công phu,
Chăn trâu treo sách một pho trên sừng.
Ấy những người trước từng khó nhọc,
Sau làm nên tước lộc quan sang,

Làm trai chí khí hiên ngang,
Chớ rằng nguy khổ trễ tràng làm chi!
Oanh bé nhỏ tuổi thì lên tám,
Việc đọc thơ sớm đủ tinh thông
Lão Tuyền tuổi cả gia công,

Hai mươi bảy tuổi dốc lòng nghề nho.
Đường Lưu Án tuổi vừa lên bảy,
Đỗ Thần đồng tiếng dậy gần xa.
Ông Lương đã đến tuổi già,
Tám mươi hai tuổi đỗ khoa đại đình

Đường vân trình dù sau dù trước,
Chữ công danh ai khác chi ai,
Hễ người có chí có tài,
Gió rung mặc gió khôn rời khôn lay.
Chẳng sợ kẻ lắm thầy nhiều tớ,

Thấy ta nghèo ra sự rẻ khinh,
Thư trung lắm kẻ hiển vinh,
Dập dìu hầu hạ, linh đình ngựa xe.
Chẳng sợ kẻ lắm tiền, nhiều lúa,
Nghĩ mình rằng có của thì hơn,

Thư trung Kim ngọc vô vàn,
Đầy khè chung đỉnh, chứa chan bạc vàng.
Chẳng sợ lắm kẻ thê nhiều thiếp,
Đả hẳn rằng tốt đẹp hơn ai ?
Thư trung có gái tuyệt vời,

Những người mặt ngọc là người vẻ vang.
Chẳng sợ kẻ tòa ngang dãy giọc,
Khinh nhau rằng hàn ốc thê lương.
Thư trung tuấn vũ điêu tường.
Lầu hồng gác phượng cột giường liền mây

Ai có chí đêm ngày luyện tập,
Theo người xưa cho kịp mới nên.
Học cho hy thánh hy hiền,
Việc gì thông biết chẳng phiền lụy ai.
Chốn lâm tẩu, hoài tài bảo đức,

Khắp bốn phương đồn nức thời danh,
Chiếu nêu cao giá ngọc lành,
Xe loan có thủa cung doanh có ngày.

2/ Bài ca Trần Hưng Đạo (Hồ Chí Minh)

.. Diên Hồng thề trước thánh minh
Lòng dân đã quyết hy sinh rành rành
Nếu ai muốn đến giành đất Việt
Đưa dân ta ra giết sạch trơn
Một người Việt hãy đương còn
Thì non sông Việt vẫn non sông nhà…

3/ Ái quốc (Phan Bội Châu)

Nay ta hát một thiên ái quốc,
Yêu gì hơn yêu nước nhà ta!
Trang nghiêm bốn mặt sơn hà,
Ông cha để lại cho ta lọ vàng.

Trải mấy lớp tiền vương dựng mở,
Bốn ngàn năm giãi gió dầm mưa
Biết bao công của người xưa,
Gang sông, tấc núi, dạ dưa, ruột tằm.
Hào Đại Hải âm thầm trước mặt,

Dải Cửu Long quanh quất miền Tây.
Một tòa san sát xinh thay,
Bên kia Vân, Quảng, bên này Côn Lôn!
Vẻ gấm vóc nước non thêm đẹp.
Rắp những mong cơ nghiệp dài lâu.

Giống khôn há phải đàn trâu,
Giang sơn nỡ để người đâu vẫy vùng!
Hai mươi triệu dân cùng, của hết,
Bốn mươi năm nước mất, quyền không.
Thương ôi! Công nghiệp tổ tông,

Nước tanh máu đỏ, non chồng thịt cao!
Non nước ấy biết bao máu mủ,
Nỡ nào đem nuôi lũ sài lang?
Cờ ba sắc xứ Đông Dương,
Trông càng thêm nhục, nói càng thêm đau!

Nhục vì nước, mà đau người trước,
Nông nỗi này, non nước cũng oan.
Hồn ơi! Về với giang sơn,
Muôn người muôn tiếng hát ran câu này:
“Hợp muôn sức ra tay quang phục,

Quyết có phen rửa nhục báo thù…”
Mấy câu ái quốc reo hò.
Chữ đồng tâm ấy phải cho một lòng.

4/ Bạch Vân Ca (Nguyễn Bỉnh Khiêm)

Nước Nam thường có thánh tài.
Sơn hà vững đặt ai hay tỏ tường.
Kìa Nhị Thủy, nọ Dao Sơn,
Bài ngọc dát nổi, âu vàng Trời cho.
Học cách vật mới dò tới chốn,
Chép ghi làm một bổn xem chơi.
Muôn việc cũng bởi tại người,
Suy ra mới biết sự đời dường bao.
Dẫu ai có vàng trau nghìn hột,
Châu bái hơn chữ một nghĩa mười.
Tiên Hoàng từ trước mở ngôi,
Cờ lau tập trận thay Trời trị dân.
Mới được mười hai dư xuân,
Lê Hành kế vị, xa gần âu ca.
Ba mươi năm ngôi nhà được lẻ,
Đến Ngọa Triều nào kẻ tài hay.
Ngôi Trời dể Lý vào thay,
Tám cành hoa nở đến ngày dực phân.
Chiêu Hoàng là Á Nữ Quân,
Thấp bề nhan sắc trao Trần Thái Tôn.
Thập nhị thế, tiếng đồn nhân hậu;
Trăm bảy mươi ghi dấu thất niên.
Đông A chốn ấy còn bề,
Quý Ly tiếm thiết thay quyền đã cam.
Đại Ngu được mười bốn năm;
Hậu Trần Nhị Đế lại chăm phục hồi.
Suy ra mới biết sự Trời;
Lam Sơn khởi nghĩa là đời Lê Gia
Tây Sơn sừng sực kéo ra,
Ngẫm xem thế tục gọi là phương ngôn.
Đến Phụ Nguyên đòi còn chinh chiến,
Trả bao thu dâu biển cát lầm
Rừng xa vực thẩm nguồn thâm,
Nào ai biết sẽ nhân tâm lúc nầy.
Chó mừng chúa, gà bày cục tác,
Lợn ăn no thả rác nằm chơi.
Đó mới kể là đời thịnh thế,
Mà thiên hạ sau sẻ làm hai.
Người Đoài cũng thực ấy tài,
Mà cho người Sở toan bài lập công.
Bởi Trần Vương ngu không kể siết,
Mới phen nầy dê lại giết dê.
Đến khi thức tận binh bì,
Âm binh ở giữa, dễ thì biết sao.
Trời cho ta mang dao chém quỷ,
Khắp dưới Trời bình trị quỷ thư.
Ai từng cứu con thơ xa giếng,
Chớ một lòng chinh chiến phá nhau.
Muôn dân chịu những âu sầu,
Kể dư nhị ngũ mới hầu biết cho.
Chốn Đông Nam lò dò khổ ải,
Lánh cho xa kẻo phải đao binh.
Bắc phương chín thực đế kinh,
Náu mình chưa dể náo danh được nào.
Vả người là đúng anh hào,
Đánh làm sao được ước ao đêm ngày.
Ấy những quân đời này thế ấy,
Lòng Trời xui ai nấy biết đâu.
Chớ đừng tham của làm giàu,
Tìm nơi tam hiểm, ngỏ hầu bảo thân.
Đà Giang chốn ấy cũng gần,
Kim Ngư chốn ấy cũng phần thuở nơi.
Ba Thục riêng một góc trời,
Thái Nguyên một dải là nơi trú đình.
Tư bề núi đá xanh xanh,
Có đường tiểu mạch nương mình ai hay.
Bốn bụt xuất thế dã chầy,
Chưa chọn được ngày ra của nhân dân.
Ấy là điềm xuất thánh quân,
Hễ ai biết được thì thân mới toàn.
Chữ rằng hữu xạ tức tự nhiên hương,
Có phải tầm thường thuốc đấu bán sao?
Nắng lâu phải có mưa rào,
Vội chi tát nước xôn xao cày bừa.
Hạn rồi thì phải có mưa,
Buồm giương gặp gió, cày bừa gặp cơn.
Tuần này thánh xuất Khâm phương,
Sự thực đã tường, chẳng phải lo suy.
Quần hùng binh dậy sơn khê,
Kẻ khoe cứu nước, người khoe trợ thời.
Xem thấy những sương rơi tuyết lạnh,
Loài bất bình tranh cạnh hung hăng.
Một cơn sấm dậy đất bằng,
Thánh nhân ra mới cứu hàng sinh linh.
Lược thao văn vũ tài tình,
Mới hay phú quý hiển vinh lạ lùng.
Tam công gặp hội vui mừng,
Bỏ khi cá nước vẫy vùng biển sông.
Bỏ khi chém rắn vẽ rồng,
Bỏ khi non Bắc ải Đông mịt mù.
Bỏ khi kẻ Việt người Hồ,
Bỏ khi kẻ Sở người Ngô xa đường
Càn khôn phủ tái vô lương,
Đào viên đỉnh phát, quần dương tranh hùng.
Cơ nhị ngũ thư hùng vi quyết,
Đảo Hoành Sơn tam liệt ngũ phân.
Ta hồ vô phụ vô quân,
Đào viên tản lạc, ngô dân thủ thành.
Càn khôn phù tái vô lường,
Đào Viên đỉnh phát, quần dương tranh hùng.
Cơ nhị ngũ thư anh hùng vị quyết,
Đảo Hoành Sơn tam liệt ngũ phân.
Ta hồ vô phụ vô quân,
Đà Giang phúc địa giáng linh,
Cửu trùng thụy ứng lòng thành ngũ vân.
Phá điền thiên tử giáng trần,
Dũng sĩ nhược hải, mưu thần như lâm.
Trần Công nãi thị phúc tâm,
Giang hồ sử sĩ đào tầm xuất du.
Tương thần hệ xuất Y, Chu,
Thử kỳ phục kiến Đường, Ngu thị thành.
Hiệu xưng thiên hạ thái bình,
Đông Tây vô sự Nam thành quốc gia.

thể loại thơ song thất lục bát cách làm
Thơ Bạch Vân Ca của tác giả Nguyễn Bỉnh Khiêm

5/ Chiêu hồn nước (Phạm Tất Đắc)

(Đăng trong báo Việt-Hồn ở Hải-ngoại gửi về.)

Trông cố-quốc lòng đau khôn xiết
Sáu mươi năm Nam-Việt lầm than!
Thương thay nước mất nhà tan,
Dưới sông máu chảy trên ngàn xương phơi.
Thân nô-lệ làm tôi tớ Pháp,
Biết bao giờ cho thoát cơ-hàn.
Than ôi! Nam-Việt giang-san,
Người nhiều đất rộng kho tàng sạch không!
Dân lao khổ rét hôm đói tối:
Thuế nặng nề lại giới quan tham.
Cường-quyền theo thói giã-man,
Bạc vàng vơ vét mình làm chúng sơi.
Đồng-bào hỡi liệu thời đứng dạy.
Tuốt gươm ra đòi lấy san-hà,
Chém giết giặc dựng cơ-đồ
Tự cường, tự trị phỏng nhờ cậy ai.
Thương quý nhau một mai sung sướng
Quyết một lòng thờ phụng quốc-gia,
Nước non vẫn nước non nhà

Giang-san Hồng-Lạc vẫn là giang-san,
Kẻ bất nghĩa buôn dân bán nước,
Người chí cao vẫn ước phục thù.
Gớm thay cho đứa thất phu.
Làm trai chẳng biết phục thù nước non
Nước đã mất thân còn khá tiếc
Nhà đã tan phải biết trả hờn.
Anh hùng nghĩa-sĩ danh thơm
Sử sanh tìm chép sớm hôm phụng thờ.
Trần Hưng-Đạo thủa xưa đuổi giặc
Ẩu, Nhị Trưng quân Bắc cũng gờm!
Lê Vương khởi nghĩa Lam-Sơn,
Xông tên đốt pháo đền ơn nước nhà.
Quốc dân hỡi! thân ta phải liệu
Có học hành, lánh rượu xa chè,
Thuốc phiện, thứ ấy mới ghê
Rõ ràng thuốc độc để mê hại người
Tỉnh giấc dạy kẻo đời ngắn ngủi
Cố bước lên kẻo tủi Tiên Rồng
Đồng tâm hiệp lực thành công
Thương nhau phải nhớ non sông nòi vàng.
Trai anh hùng phơi gan chiến-địa
Gái trung trinh kết nghĩa tao-khang
Cùng nhau giết giống tham tàn

Đuổi xa bờ cõi sửa sang biên thùy
Dựng dân chủ dương uy châu Á:
Đem tự do vá cả trời Nam,
Cuộc đời mở hội doanh hoàn
Việt-Nam dân quốc giang san thái bình.
Lừng lẫy tiếng dân vinh quốc thái!
Đem máu đào đổi lấy phân minh
Mấy nhời nhắn nhủ đinh ninh.
Làm người phải biết nhục vinh ở đời.
Quốc dân hỡi! nay thời đã đến
Đem súng đồng cung kiếm trỏ ra.
Chỉ giời thề với sơn hà
Quyết lòng nợ nước thù nhà trả xong
Quân tàn bạo còn dong chi nữa
Mà đề huề mà tựa ở người.
Nào ai sót giống thương nòi
Đồng tâm nạp súng ta đòi sang san,
Dựng độc lập vẻ vang biết mấy
Cõi Á-Đông vùng vẫy Việt-Nam.
Chớ cho da trắng đè vàng
Nghìn năm tiêng để muôn vàn xấu xa,
Kìa Xiêm, Nhật, Trung-Hoa trước mặt
Chì anh hùng chiếm đoạt Tây phương

Noi gương mấy nước hùng cuờng
Dựng cờ khởi nghĩa khỏi đường lao lung
Đồng bào hỡi thử trông cho xiết
Ma-lạc-Kha còn biết phục thù,
Si ri (Syrie) dân chẳng phải ngu.
Đem hòn máu đỏ đền bù nuớc non,
Người như thế ta còn ngủ mãi
Cố gắng lên thắng bại là thường,
Anh hùng hào kiệt bốn phương
Cùng nhau ta quyết mở đường can qua
Chớ có sợ sức ta yếu mạnh
Đã có ngoài cách mệnh giúp công.
Chỉ chờ nội ứng là xong
Anh em sum họp, súng đồng ngoài cho
Đồng bang ta chớ, chờ cùng đợi
Dắt díu nhau bước tới văn minh.
Xa xôi bày tỏ chút tinh
Chúc cho Nam Việt hiển vinh đời đời

6/ Hịch tướng sĩ (1914) tác giả Trần Hưng Đạo – Phan Kế Bính dịch

Kìa Kỷ-Tín, Do-Vu thủa trước,
Liều một mình thoát được nạn vua.
Nuốt than, Dự-Nhượng báo thù,
Chặt tay, Thân-Khoái đền bù quốc ân.
Đường Kính-Đức đem thân cứu chúa,
Nhan Thường-sơn mắng quở nghịch-thần.

Từ xưa nghĩa-sĩ, trung-thần.
Đã lòng vì nước biết thân là gì!
Nếu cứ giữ nữ-nhi thường thái,
Chỉ khu khu biết cái thân mình.
Ở đời một cõi phù sinh,
Còn đâu là tiếng hiển vinh đến rầy?
Thôi chẳng kể việc ngày tiền-cổ,
Hãy xem ngay việc rõ Tống, Nguyên:
Kìa như Nguyễn-Lập, Vương-Kiên,
Điếu-ngư thành ấy quân quyền được bao?
Đương trăm vạn ào ào quân giặc,
Giữ cho dân nay được hàm ân.
Ngột-Lương một chức võ-thần,
Tu-Tư tì-tướng xuất thân đó mà!
Đường muôn dặm xông pha chướng dịch,
Trong vài tuần quét sạch Vân-nam.
Lập công tuyết-vực đã cam,
Khiến cho quân trưởng tiếng thơm để đời.
Nay gặp phải trong thời nhiễu loạn,
Ta cùng ngươi đương đoạn gian truân.
Nghĩ sao sánh với cổ-nhân,
Cũng nên hết bụng trung quân mới là!
Kìa thử ngắm sự nhà Mông-cổ,
Sứ vãng lai nhặng bộ xôn xao.
Cú diều uốn lưỡi thấp cao,
Bẻ bai triều bệ xiết bao nhục nhằn!
Tuồng dê chó cậy rằng đắc thế,
Chốn triều-đường ngạo nghễ vương công.
Cậy tay Tất-Liết anh hùng,
Bạc vàng biết mấy cho cùng dạ tham?
Lại ỷ thế Vân-nam hống hách,
Định sang ta vét sạch của ta;
Thịt đâu hoài thịt ném ra,
Ném cho hổ đói dễ đà khỏi lo?
Nghĩ đến sự rầy vò xấu hổ,
Ngày quên ăn, đêm ngủ không an.
Vỗ mình thổn thức canh tàn,
Chạnh đau khúc dạ, chảy dàn giọt châu.
Ăn gan ấy mới hầu thỏa dạ,
Uống huyết kia mới hả giận này.

Ví dù gan nát, óc lầy,
Cho rằng da ngựa bọc thây cũng đành.
Hỡi chư tướng cầm binh dưới trướng!
Cơm áo vua an hưởng bao lâu?
Chúa lo không biết âu sầu,
Hầu quân Mông-cổ không mầu hổ ngươi.
Hết cờ bạc vui chơi gà chọi,
Thôi rượu chè lại ngõi hát hay.
Vợ con quấn quít đêm ngày,
Ruộng vườn chăm chút riêng tây của nhà.
Việc quân-quốc ví mà biếng nhác,
Cuộc du-điền đã chắc vui không?
Giặc Nguyên phỏng lại đùng đùng,
Lấy gì chống giữ, hay cùng can tâm?
Cựa gà sắc, khôn đâm giáp giặc,
Mẹo bạc gian, khó đạc mưu quân.
Vợ con thêm bận vướng chân,
Ruộng vườn khôn chuộc cái thân nghìn vàng.
Đầu giặc há có vàng mua được,
Sức chó săn đuổi khước giặc sao?
Rượu ngon giặc chẳng lao đao,
Hát hay giặc chẳng hơi nào điếc tai.
Nếu đến lúc vua tôi mắc nạn,
Nhà các ngươi gia-sản cũng tan.
Các ngươi nên phải lo toan,
Húp canh ngớp nóng, nằm giàn lo thiêu!
Quân-sĩ phải hết triều dạy dỗ,
Rèn tập nghề cung, nỗ, qua, mâu.
Quyết tình giết giặc treo đầu,
Đem công phá lỗ về tâu triều-đình.
Được như thế ta vinh đã vậy,
Các ngươi cùng nổi dậy tiếng hay.
Vậy nên có quyển thư này,
Truyền cho các tướng đêm ngày chuyên coi.
Nếu biết nghĩ mà noi nhời bảo,
Ấy thầy trò hòa hảo một nhà.
Ví dù trái bỏ nhời ta,
Dẫu trong tôi tớ cũng ra cừu thù.
Bởi Mông-cổ là thù của nước,
Không chung giời ở được cùng nhau.

Các ngươi sao chẳng xót đau?
Bấm gan chịu nhục, cúi đầu làm thinh.
Lại không dạy quân binh cho biết.
Lâm giặc vào chịu chết bó tay.
Phỏng sau bình định có ngày,

7/ Khóc Dương Khuê (Nguyễn Khuyến)

Bác Dương thôi đã thôi rồi,
Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta.
Nhớ từ thuở đăng khoa ngày trước,
Vẫn sớm hôm tôi bác cùng nhau;
Kính yêu từ trước đến sau,
Trong khi gặp gỡ khác đâu duyên trời?
Cũng có lúc chơi nơi dặm khách,
Tiếng suối nghe róc rách lưng đèo;
Có khi từng gác cheo leo,
Thú vui con hát lựa chiều cầm xoang;
Cũng có lúc rượu ngon cùng nhắp,
Chén quỳnh tương ăm ắp bầu xuân,
Có khi bàn soạn câu văn,
Biết bao đông bích, điển phần trước sau,

Buổi dương cửu cùng nhau hoạn nạn,
Phận đấu thăng chẳng dám tham trời;
Bác già, tôi cũng già rồi,
Biết thôi, thôi thế thì thôi mới là!
Muốn đi lại tuổi già thêm nhác,
Trước ba năm gặp bác một lần;
Cầm tay hỏi hết xa gần,
Mừng rằng bác hãy tinh thần chưa can,
Kể tuổi tôi còn hơn tuổi bác,
Tôi lại đau trước bác mấy ngày;
Làm sao bác vội về ngay,
Nghe tin, tôi bỗng chân tay rụng rời.
Ai chẳng biết chán đời là phải,
Sao vội vàng đã mải lên tiên;
Rượu ngon không có bạn hiền,
Không mua không phải không tiền không mua.
Câu thơ nghĩ đắn đo không viết,
Viết đưa ai, ai biết mà đưa;
Giường kia treo những hững hờ,
Đàn kia gẩy cũng ngẩn ngơ tiếng đàn.
Bác chẳng ở dẫu van chẳng ở,
Tôi tuy thương, lấy nhớ làm thương;
Tuổi già hạt lệ như sương,
Hơi đâu chuốc lấy hai hàng chứa chan!

8/ Hai Chữ Nước Nhà

Tác giả: Trần Tuấn Khải

Chốn Ải Bắc mây sầu ảm đạm

Cõi trời Nam gió thảm đìu hiu

Bốn bề hổ thét chim kêu

Đoái nom phong cảnh như khêu bất bình

 

Hạt máu nóng thấm quanh hồn nước

Chút thân tàn lần bước dặm khơi

Trông con tầm tã châu rơi

Con ơi con nhớ lấy lời cha khuyên:

 

Giống Hồng Lạc hoàng thiên đã định

Mấy ngàn năm suy thịnh đổi thay

Trời Nam riêng một cõi này

Anh hùng, hiệp nữ xưa nay kém gì!

 

Than vận nước gặp khi biến đổi

Ðể quân Minh thừa hội xâm lăng

Bốn phương khói lửa bừng bừng

Xiết bao thảm hoạ xương rừng máu sông!

 

Nơi đô thị thành tung quách vỡ

Chốn dân gian bỏ vợ lìa con

Làm cho xiêu tán hao mòn

Lạ gì khác giống dễ còn thương đâu!

 

Thảm vong quốc kể sao cho xiết

Trông cơ đồ nhường xé tâm can

Ngậm ngùi khóc đất giời than

Thương tâm nòi giống lầm than nỗi này!

 

Khói Nùng lĩnh như xây khối uất

Sóng Long giang nhường vật cơn sầu

Con ơi! càng nói càng đau…

Lấy ai tế độ đàn sau đó mà?

 

Cha xót phận tuổi già sức yếu

Lỡ sa cơ đành chịu bó tay

Thân lươn bao quản vũng lầy

Giang sơn gánh vác sau này cậy con

 

Con nên nhớ tổ tông khi trước

Đã từng phen vì nước gian lao

Bắc Nam bờ cõi phân mao

Ngọn cờ độc lập máu đào còn dây

 

Kìa Trưng nữ ra tay buồm lái

Phận liễu bồ xoay với cuồng phong

Giết giặc nước, trả thù chồng

Nghìn thu tiếng nữ anh hùng còn ghi

 

Kìa Hưng Đạo gặp khi quốc biến

Vì giống nòi quyết chiến bao phen

Sông Bạch Đằng phá quân Nguyên

Gươm reo chính khí nước rền dư uy

 

Coi lịch sử gươm kia còn tỏ

Mở dư đồ đất nọ chưa tan

Giang san này vẫn giang san

Mà nay sẻ nghé tan đàn vì ai?

 

Con nay cũng một người trong nước

Phải nhắc câu Gia, Quốc đôi đường

Làm trai hồ thỉ bốn phương

Sao cho khỏi thẹn với gương Lạc Hồng

 

Thời thế có anh hùng là thế

Chữ vinh hoa xá kể làm chi!

Mấy trang hào kiệt xưa kia

Hy sinh thân thế cũng vì nước non

 

Con đương độ đầu xanh tuổi trẻ

Bước cạnh tranh há dễ nhường ai?

Phải nên thương lấy giống nòi

Đừng tham phú quý mà nguôi tấc lòng

 

Kiếp luồn cúi, đỉnh chung cũng nhục;

Thân tự do chiên chúc mà vinh

Con ơi nhớ đức sinh thành

Sao cho khỏi để ô danh với đời

 

Chớ lần lữa theo loài nô lệ

Bán tổ tiên kiếm kế sinh nhai

Đem thân đầy đọa tôi đòi

Nhục nhằn bêu riếu muôn đời hay chi?

 

Sống như thế, sống đê, sống mạt

Sống làm chi thêm chật non sông!

Thà rằng chết quách cho xong

Cái thân cẩu trệ ai mong có mình!

 

Huống con cũng học hành khôn biết

Làm giống người phải xét nông sâu

Tuồng chi gục mặt cúi đầu

Cam tâm làm kiếp ngựa trâu cho đành!

 

Nỗi tâm sự đinh ninh dường ấy

Cha khuyên con có bấy nhiêu lời

Con ơi! con phải là người

Thì con theo lấy những lời cha khuyên

 

Cha nay đã muôn nghìn bi thảm

Nói bao nhiêu tâm khảm càng đau!

Chân mây mặt cỏ rầu rầu

Càng trông cố quốc mạch sầu càng thương!

 

Lời cha dặn khắc xương để dạ

Mấy gian lao con chớ sai nguyền

Tuốt gươm thề với vương thiên

Phải đem tâm huyết mà đền cao sâu

 

Gan tráng sĩ vững sau như trước

Chí nam nhi lấy nước làm nhà

Tấm thân xẻ với san hà

Tượng đồng bia đá hoạ là cam công

 

Nữa mai mốt giết xong thù nghịch

Mũi long tuyền lau sạch màu tanh

Làm cho đất rộng trời kinh

Bấy giờ quốc hiển gia vinh có ngày!

 

Nghĩa vụ đó con hay chăng tá?

Tính toán sao vẹn cả đôi đường

Cha dù đất lạ gửi xương

Trông về cố quốc khỏi thương hồn già.

9/ Thơ song thất lục bát nổi tiếng Chinh Phụ Ngâm

Tác giả: Đặng Trần Côn

Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,

Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.

Ngoài rèm thước chẳng mách tin,

Trong rèm, dường đã có đèn biết chăng ?

Đèn có biết dường bằng chẳng biết,

Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.

Buồn rầu nói chẳng nên lời,

Hoa đèn kia với bóng người khá thương.

Gà eo óc gáy sương năm trống,

Hoè phất phơ rủ bóng bốn bên.

Khắc giờ đằng đẳng như niên,

Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.

Hương gượng đốt hồn đà mê mải,

Gương gượng soi lệ lại châu chan.

Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,

Dây uyên kinh đứt phím loan ngại chùng.

Lòng này gửi gió đông có tiện?

Nghìn vàng xin gửi đến non Yên Non

Non Yên dù chẳng tới miền,

Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời.

Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun.

Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu,

Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong.

Cảnh buồn người thiết tha lòng,

Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun.

10/ Xuân Sầu (II) – Top bài thơ song thất lục bát nổi tiếng nhất

Tác giả: Tản Đà.

Trăm hoa đua nở đẹp hơn cười

Một cái oanh vàng uốn lưỡi chơi

Phong cảnh chiều xuân vui vẻ thế

Xuân sầu chi để bận riêng ai!

Mười lăm năm trước xuân xanh

Tri Tri cất tiếng, Hữu Thanh gọi đàn

Tình nguyện vọng chứa chan non nước

Bạn tri âm man mác giời mây

Nở gan một cuộc cười say

Đường xa coi nhẹ gánh đầy như không

Phận nam nhi tang bồng là chí

Chữ trượng phu ý khí nhường ai

Non sông thề với hai vai

Quyết đem bút sắt mà mài lòng son

Dư đồ rách, nước non tô lại

Đồng bào xa, trai gái kêu lên

Doanh hoàn là cuộc đua chen

Rồng Tiên phải giống ngu hèn, mà cam!

Tiếng gọi bạn nửa năm vừa dứt

Sức thua giời, trăm sức mà chi

Tình duyên đến lúc phân ly

Giang sơn bảng lảng, tu mi thẹn thùng

Xếp ngọn bút, đau lòng son sắt

Giã đàn văn, lánh mặt phong sương

Cho hay trần luỵ đa mang

Trăm năm duyên nợ văn chương còn nhiều

Thuyền một lá buông liều sông nước

Lái tám năm xuôi ngược dòng sông

Nực cười trận gió đông phong

Làm cho chú lái không công mất thuyền

Ngồi nghĩ lại mối duyên sao lạ

Dẫu kêu rằng món nợ cũng hay

Trần hoàn trả trả vay vay

Kể chi công nợ, cho rầy thanh tao

Mừng xuân mới, rượu đào khuyên cạn

Vắng tri âm mà bạn non xanh

Gan vàng, tóc bạc, non xanh

Thiên nhiên ai hoạ bức tranh xuân sầu?

11/ Top thơ song thất lục bát hay Khóc Dương Khuê

Tác giả: Nguyễn Khuyến

Bác Dương thôi đã thôi rồi,

Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta.

Nhớ từ thuở đăng khoa ngày trước,

Vẫn sớm hôm tôi bác cùng nhau;

Kính yêu từ trước đến sau,

Trong khi gặp gỡ khác đâu duyên trời?

Cũng có lúc chơi nơi dặm khách,

Tiếng suối nghe róc rách lưng đèo;

Có khi từng gác cheo leo,

Thú vui con hát lựa chiều cầm xoang.

Cũng có lúc rượu ngon cùng nhắp,

Chén quỳnh tương ăm ắp bầu xuân.

Có khi bàn soạn câu văn,

Biết bao đông bích, điển phần trước sau.

Buổi dương cửu cùng nhau hoạn nạn,

Phận đẩu thăng chẳng dám tham trời;

Bác già, tôi cũng già rồi,

Biết thôi, thôi thế thì thôi mới là!

Muốn đi lại tuổi già thêm nhác,

Trước ba năm gặp bác một lần;

Cầm tay hỏi hết xa gần,

Mừng rằng bác hãy tinh thần chưa can.

Kể tuổi tôi còn hơn tuổi bác,

Tôi lại đau trước bác mấy ngày;

Làm sao bác vội về ngay,

Chợt nghe, tôi bỗng chân tay rụng rời.

Ai chẳng biết chán đời là phải,

Sao vội vàng đã mải lên tiên;

Rượu ngon không có bạn hiền,

Không mua không phải không tiền không mua.

Câu thơ nghĩ đắn đo không viết,

Viết đưa ai, ai biết mà đưa.

Giường kia treo cũng hững hờ,

Đàn kia gảy cũng ngẩn ngơ tiếng đàn.

Bác chẳng ở, dẫu van chẳng ở,

Tôi tuy thương, lấy nhớ làm thương;

Tuổi già hạt lệ như sương,

Hơi đâu chuốc lấy hai hàng chứa chan!

12/ Thơ song thất lục bát nổi tiếng Đôi Mắt

Tác giả: Lưu Trọng Lư

Có hoa nào qua mùa không héo?

Có tiếng nào giàu đẹp hơn không?

Mắt em là một dòng sông

Thuyền anh bơi lội giữa dòng mắt em.

 

Đàn “nguyệt dạ” hương đêm bay lạc

Gì buồn hơn tiếng vạc lưng chừng?

Phép gì khỏi nhớ đừng trông

Mắt em bỏ túi, vắng lòng đem soi.

Những bài thơ song thất lục bát hay

Ngoài những bài thơ song thất lục bát được sáng tác bởi các danh nhân, có nhiều bài thơ khác mang nhiều ý nghĩa đẹp. Mời bạn tham khảo thêm một số bài thơ hay được viết theo dạng này:

1/ Trăng Rơi

Tác giả: Huỳnh Minh Nhật

thơ song thất lục bát là gì
Đoạn trích thơ Trăng Rơi

Khung cửa sổ treo mành năm tháng

Cửa cài then nắng chẳng lối vào

Đêm đêm mây gió rì rào

Ánh trăng mệt mỏi rơi ào qua vai

 

Nhặt mảnh trăng rơi bẻ làm hai

Treo lên khung cửa thoáng hương nhài

Thắp lên nỗi nhớ thật dài

Trách ai đi mãi hương tình nhạt phai

 

Yêu thương đi đắng cay ở lại

Đêm đêm mơ ướt cả bờ vai

Mắt sâu đẫm lệ phôi phai

Tóc mây bù rối môi càng khô thâm

 

Hồn trơ trọi tháng ngày suy ngẫm

Tim héo hon thấm đẫm tình yêu

Tình yêu trả lại cô liêu

Bên thềm lá rụng tiêu điều xác xơ

 

Cô gái ấy nay còn đâu nữa

Một nửa hồn đã chết tim yêu

Những đêm gió thoảng dập dìu

Bóng hình ai đó lại điêu đứng lòng.

2/ Thu tới

Hè chưa hết, thu sang vội vã
Để hoàng hôn rợp cả sắc vàng
Vương tình chân bước lang thang
Nhớ về thu cũ… nhẹ nhàng lá rơi

3/ Đón thu

Đón thu tới một mình ngơ ngác
Gió mênh mang như lạc mùa xưa
Mùa qua đếm mấy cho vừa
Heo may sao lại cứ đưa tình về

Mùi hoa sữa mải mê quyến rũ
Hương cốm thơm ấp ủ duyên thầm
Ngẩn ngơ như cựa trong tâm
Phố bay rợp lá sao cầm lòng say

Thu sang cũng đã mấy ngày
Ngoài kia giọt nắng đang quay lá vàng

4/ Thuyền neo bến đậu – Top những bài thơ song thất lục bát hay

Tác giả: Hoàng Mai

Em nhớ mãi chiều thu lá đổ

Mình bên nhau cạn tỏ nguồn cơn

Chạnh lòng anh vọng lời thương

Xa xa vẳng tiếng nghe dường nỉ non.

 

Anh khắc khoải lòng son giữ mãi

Đời biển dâu xa xót tình đau

Lời anh nghe thấm từng câu

Người như ôm cả nỗi sầu thế nhân

 

Hai ta cứ tần ngần nuối tiếc

Một đời em tha thiết từng mơ

Nào ai học được chữ ngờ

Gối chăn hờ hững sương mờ phủ giăng

 

Anh chốn ấy! Mộng nay đã hết

Em ngồi đây lặng chết từng giây

Một mình trăn trở đêm nay

Biết ai hiểu thấu đắng cay chuyện lòng

 

Xuân trở giấc hoa không muốn trổ

Ngại ngần lo sầu khổ bao mùa

Thôi đành duyên kiếp đẩy đưa

Thuyền neo bến hẹn gió mùa lắt lay

thơ song thất lục bát là thể thơ gì
Đoạn trích trong bài thơ Thuyền Neo Bến Đậu

Tình chợt đến, chợt đi, ai biết

Đường vào tim khôn xiết bẽ bàng

Chòng chành với chiếc đò ngang

Mai sau biết có vẹn toàn được chăng.

5/ Thơ song thất lục bát Mồ Côi Tội Lắm Ai Ơi

Tác giả: Hoàng Mai

Thương thân trẻ bơ vơ côi cút

Không nhà ai chăm chút chiều đông

Tay ôm em bế ngửa lòng

Giữa dòng đời mới tuôn dòng lệ châu

 

Thân côi cút ban đầu khổ lắm

Mẹ rời xa cha cũng hẩm hiu

Nuôi em năm tháng chắt chiu

Chung tay nhờ cậy sớm chiều người xa

 

Thương em nhớ cha nhòa ướt gối

Nương nhờ người sớm tối rau tương

Mai sau em lớn đến trường

Nhớ ơn bá tánh nhịn nhường cái ăn

 

Chiều buông xuống một thân lê bước

Khói hương tàn lướt thướt mưa giông

Cha ơi có thấu nỗi lòng

Hồn thiêng ấp ủ đêm đông không nhà

 

Mẹ chăn nệm ấm phương xa

Có thương con trẻ bôn ba dòng đời?

6/ Thơ song thất lục bát ngắn Xa Gia Đình

Con xa mẹ thèm ăn khát bú

Vợ xa chồng đi thú biệt ly

Đêm nằm ấp lấy hài nhi

Con hời con hỡi, cha con phương nào.

đặc điểm thơ song thất lục bát
Bài thơ Xa Gia Đình viết theo thể song thất lục bát

7/ Ví dụ về thể thơ song thất lục bát Tình Bạn Hữu

Mưa đã tạnh gió dần đang rứt

Mây trôi nhanh náo nức lòng ta

Nắng hồng chiếu sáng vào nhà

Ấm tình bạn hữu nở hoa vui cười

8/ Thơ song thất lục bát tình yêu Thuyền Neo Bến Đậu

Tác giả: Hoàng Mai

Em nhớ mãi chiều thu lá đổ

Mình bên nhau cạn tỏ nguồn cơn

Chạnh lòng anh vọng lời thương

Xa xa vẳng tiếng nghe dường nỉ non

 

Anh khắc khoải lòng son giữ mãi

Đời biển dâu xa xót tình đau

Lời anh nghe thấm từng câu

Người như ôm cả nỗi sầu thế nhân

 

Hai ta cứ tần ngần nuối tiếc

Một đời em tha thiết từng mơ

Nào ai học được chữ ngờ

Gối chăn hờ hững sương mờ phủ giăng

 

Anh chốn ấy! Mộng nay đã hết

Em ngồi đây lặng chết từng giây

Một mình trăn trở đêm nay

Biết ai hiểu thấu đắng cay chuyện lòng

Xuân trở giấc hoa không muốn trổ

Ngại ngần lo sầu khổ bao mùa

Thôi đành duyên kiếp đẩy đưa

Thuyền neo bến hẹn gió mùa lắt lay

 

Tình chợt đến, chợt đi, ai biết

Đường vào tim khôn xiết bẽ bàng

Chòng chành với chiếc đò ngang

Mai sau biết có vẹn toàn được chăng.

9/ Thơ song thất lục bát hay Giã Biệt Thu

Tác giả: Hoàng Mai

Nơi góc bể tưởng ai nhớ mãi!

Tấm chân tình ân ái bấy lâu!

Sao người nỡ vội gieo sầu!

Ra đi chẳng gửi đôi câu giã từ!

 

Người giã biệt trời như lạnh lẽo

Nắng vàng tươi khô héo nhành hoa

Nơi xa duyên phận mặn mà

Lối xưa vắng bóng mình ta ngậm ngùi

cách làm thơ song thất lục bát
Trích thơ Giã Biệt Thu của tác giả Hoàng Mai

Tình đã dứt thì thôi người nhé!

Chúc người luôn vui vẻ tròn đôi

Từ nay cách biệt phương trời

Đêm đêm cô lẻ trăng rơi bẽ bàng.

 

Chân bước đếm lang thang từng ngõ

Đông ùa về buốt gõ con tim

Thu đi tình cũng trốn tìm

Tháng ngày chất chứa trời đêm mịt mùng.

Kết luận

Thơ song thất lục bát  được nhiều tác giả lựa chọn vì gieo vần hay và có nhịp điệu dễ nhớ. Có vô số những tác phẩm nổi tiếng được viết theo thể thơ này, mang đến nhiều cảm xúc khó tả cho người đọc.

Bạn có thể truy cập The Poet Magazine (https://www.thepoetmagazine.org/) để cập nhật thông tin mới nhất về các thể thơ cũng như xem những bài thơ hay được sưu tầm.

 

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *