Soạn bài, phân tích Chùm thơ hai-cư Nhật Bản Kết nối tri thức

Giới liệu, hướng dẫn soạn bài tác phân tích Chùm thơ hai-cư Nhật Bản. Thông tin chung về văn bản, gợi ý trả lời câu hỏi sgk Ngữ văn 10 Kết nối tri thức chi tiết giúp bạn có sự chuẩn bị tốt nhất trước giờ học.

Table of Contents

Chùm thơ hai-cư Nhật Bản Kết nối tri thức – Thông tin chung

Các thông tin về tác giả, tác phẩm, nội dung của các đoạn thơ trong Chùm thơ hai-cư Nhật Bản.

chùm thơ hai-cư Nhật Bản Kết nối tri thức
Thông tin chung về Chùm thơ hai-cư Nhật Bản

Giới thiệu về thơ hai-cư Nhật Bản

Hai-cư là một thể thơ truyền thống độc đáo của Nhật Bản (thi quốc), được hình thành từ thế kỷ thứ XVI đến thế kỷ XVII có những thành tựu nổi bật.

Thơ hai-cư thuộc loại ngắn nhất thế giới (cả bài chỉ 17 âm tiết, ngắt thành 3 đoạn 5-7-5). Nguyên bản tiếng Nhật chỉ có một câu thơ.

  • Dòng 1: Giới thiệu.
  • Dòng 2: Tiếp tục ý trên và chuẩn bị cho dòng 3.
  • Dòng 3: Ý thơ kết lại nhưng không rõ ràng, mở ra những suy ngẫm, cảm xúc cho người đọc ngân nga, lan tỏa.

Nội dung: Phản ánh tâm hồn người Nhật – tâm hồn ưa thích hòa nhập với thiên nhiên, vì vậy nội dung thường hướng đến một phong cảnh, một vài sự vật cụ thể, một tứ thơ, một cảm xúc, một suy tư… của người viết.

Tứ thơ: Khơi gợi xúc cảm, suy tư trong một khoảnh khắc hiện tại (quy tắc sử dụng quý ngữ).

Nội dung Chùm thơ hai-cư Nhật Bản

Mỗi bài thơ đều mang đến cho người đọc giá trị nhân văn sâu sắc, ý nghĩa về cuộc sống.

Tác giả Chùm thơ hai-cư Nhật Bản

Chùm thơ Hai-cư Nhật bản do nhiều tác giả thực hiện, thông tin sơ lược về những nhà thơ này:

Mát -chư-ô Ba-sô

  • Ông sinh năm 1644, mất năm 1694 là nhà thơ nổi tiếng của văn học Nhật.
  • Ông có công lớn trong việc hoàn thiện thơ hai-cư đưa nó trở thành thể thơ độc đáo nhất của Nhật Bản.

Chi-ô

  • Sinh năm 1703, mất năm 1750
  • Là người đánh dấu sự hiện diện của tác giả nữ trong truyền thống thơ hai-cư.
  • Trước bà, thơ hai-cư của tác giả nữ thường bị coi thường và quên lãng.
  • Bà đã trở thành một tiếng nói thơ ca độc đáo, được nhiều người yêu thích.

Cô-ba-y-a-si Ít-sa

  • Sinh năm 1763, mất năm 1828
  • Là nhà thơ kiêm tu sĩ Phật giáo.
  • Ông còn là họa sĩ tài ba, nổi tiếng với những bức tranh có đề các bài thơ hai-cư do chính ông sáng tác.

Chùm thơ hai-cư Nhật Bản thuộc thể loại gì?

Chùm thơ hai-cư thuộc thể thơ truyền thống, có vị trí quan trọng đối với văn học Nhật Bản. Đồng thời còn được xem là một trong những hình thức cô đọng nhất của thơ ca trên toàn thế giới.

Chùm thơ hai-cư- Nhật Kết nối tri thức
Chùm thơ hai-cư Nhật Bản thuộc thể thơ truyền thống

Nghệ thuật bài Chùm thơ hai-cư Nhật Bản

Cả 3 bài thơ ngắn gọn, sử dụng hình ảnh ẩn dụ của con vật, cây cối để truyền tải thông điệp sâu sắc, triết lý, đầy nhân văn.

Soạn bài Chùm thơ hai-cư Nhật Bản

Hướng dẫn học sinh soạn văn bài Chùm thơ hai-cư Nhật Bản chuẩn chương trình sách mới lớp 10.

1/ Soạn văn lớp 10 Chùm thơ hai-cư Nhật Bản – Bài thơ ngắn nhất mà bạn đã từng đọc là bài nào? Điều gì khiến nó được bạn nhớ tới?

Bài thơ ngắn nhất mà tôi từng đọc là:

Cỏ hoang trên đồng ruộng

Dẫy xong bỏ tại chỗ

Phân bón!

Như ta đã biết, thơ hai-cư không thiên về tả mà là gợi. Vì vậy, tác giả để cho người đọc tự do tư duy hoặc tự do bộc lộ cảm xúc. Với bài thơ này, đã để lại trong ta cái hình ảnh bình dị, lao động đời thường của “cỏ hoang trên đồng ruộng” và được “bỏ tại chỗ” khi “dẫy xong”. Thế nhưng, câu cuối “phân bón” lại gợi cho ta về cảm xúc nhân sinh sâu lắng về phận “cát bụi” trở về cát bụi của con người trong cái vòng sinh tử.

2/ Soạn bài Chùm thơ hai-cư ngắn nhất – Hãy hình dung về màu sắc, không khí của khung cảnh được gợi tả trong bài thơ

  • Màu sắc: nâu của cành cây khổ, đen của con quạ.
  • Không khí: lạnh lẽo, u ám, ảm đạm.

3/ Soạn bài Chùm thơ hai-cư Ấn tượng mà hình ảnh “hoa triêu nhan” và “dây gàu” gợi ra cho bạn là gì?

Ấn tượng mà hình ảnh “hoa triêu nhan” và “dây gàu” gợi hình ảnh hoa triêu nhan quấn vào dây gàu để bung nở, gợi ra một sức sống căng tràn của thiên nhiên.

4/ Khi nhắc đến “con ốc” và “núi Phu-gi”, người ta thường nghĩ đến những đặc điểm nào của chúng?

Khi nhắc đến “con ốc”, người ta thường nghĩ đến sự chậm chạp, lâu la, nhắc đến “núi Fu-gi”, người ta thường nghĩ đến sự cao lớn, mênh mông vô tận.

5/ Hãy nhận diện hình ảnh trung tâm ở từng bài thơ hai-cư và cho biết đặc điểm chung của các hình ảnh ấy

Bài thơ 1: Hình ảnh trung tâm là “con quạ”.

Bài thơ 2: Hình ảnh trung tâm là “hoa triêu nhan”.

Bài thơ 3: Hình ảnh trung tâm là “con ốc nhỏ”.

Nhận xét chung: Hình ảnh trung tâm là những sự vật bé nhỏ, bình thường và gần gũi.

6/ Xác đinh mối quan hệ giữa hình ảnh trung tâm trong bài thơ của Ba-sô với các yếu tố thời gian và không gian

Hình ảnh trung tâm là cánh quạ đậu trên cành khô trong bài thơ thứ nhất gợi lên một không gian của chiều thu vắng lặng tiêu sơ, cô quạnh.

7/ Bài thơ của Chi-y-ô được triển khai xoay quanh phát hiện nào? Theo bạn, vì sao phát hiện này lại dẫn dắt nhân vật trữ tình sang “xin nước nhà bên”?

Nhà thơ phát hiện dây hoa triêu nhan đang quấn quanh sợi dây gàu bên thành giếng.

Nhà thơ nhìn thấy sự sống nhìn thấy cái đẹp trong đóa triêu nhan nhỏ nhoi nhưng bền bỉ. Hoa triêu nhan vốn là một loại dây leo đã quấn vào gây gàu để nở. Trước cái đẹp, trước sự sống nhà thơ nâng niu, trân trọng, không nỡ làm tổn thương nên chọn giải pháp “xin nước nhà bên”, để sự sống và cái đẹp được hiện hữu.

8/ Từ những đặc điểm thường được liên hệ khi hình dung về “con ốc” và “núi Phu-gi”, hãy nhận xét về tương quan giữa hai hình ảnh này

Thời gian hiện ra thật chậm qua động tác “chậm rì, chậm rì” của con ốc.

Không gian thể hiện qua hình ảnh tương phản giữa ngọn núi Phu-gi với hình ảnh con ốc bé nhỏ. Sự tương phản giữa cái to lớn với cái bé nhỏ càng làm bật lên sự cô đơn. Nhưng quan trọng là nó nói lên sự nỗ lực của con người trong hành trình chinh phục cuộc sống, ước mơ lớn lao của đời người.

9/ Khoảnh khắc được thể hiện trong bài thơ của Ba-sô có thể khơi gợi những cảm xúc gì ở người đọc?

“Cành cây”, “con quạ”, “chiều thu” toát ra sự cô tịch. Bài thơ không chỉ tái hiện phong cảnh héo úa của một chiều thu bên hình bóng một con quạ, nó còn là sự tương phản của thân hình màu đen và sự bé nhỏ của con quạ giữa bóng tối bao la vô định sắp trùm xuống của buổi chiều hôm.

Hình ảnh con quạ cô đơn đậu trên cành cây trơ trụi giữa một chiều thu mênh mông đã đưa người đọc vào cảnh giới u huyền và cô tịch, một thế giới hư không như trống rỗng.

10/ Từ bài thơ của Chi-y-ô, hãy bình luận về ý nghĩa triết lí trong cách ứng xử của con người đối với thiên nhiên mà bài thơ gợi ra

Nhân vật trữ trình Ciyo ra giếng lấy nước, thấy hoa triêu nhan đang quấn quanh dây gầu. Thương hoa, trân trọng vẻ đẹp mong manh, thuần khiết của hoa nên không nỡ dùng gầu múc nước mà sang nhà hàng xóm xin nước để dùng. Triết lí về cách ứng xử của con người đối với thiên nhiên: trân trọng sự sống tự nhiên dù là nhỏ bé, trân trọng cái đẹp. Một đóa triêu nhan mỏng manh làm tỏa sáng một tình thương mênh mông và cảm động.

11/ Bạn cảm nhận như thế nào về hành trình “chậm rì” của con ốc trong bài thơ của Ít-sa?

Hành trình con ốc trèo lên núi Phú Sĩ gợi lên cuộc hành trình chinh phục ước mơ, hoài bão, khát vọng của con người. Trên thực tế cuộc sống, mỗi người đều là chú ốc nhỏ bé bình dị nhưng đều ấp ủ một giấc mơ cháy bỏng của riêng cuộc đời mình. Sức mạnh nội tại của chính bản thân chúng ta là nguồn sức mạnh động lực để thúc đẩy đưa chúng ta đến đỉnh cao của cuộc đời mình. Nếu như chú ốc sên khát khao chinh phục núi Phú Sĩ thì mỗi người đều có một đỉnh cao của cuộc đời mình mà muốn chinh phục. Một hình ảnh giàu sức gợi và mang triết lí nhân sinh sâu sắc.

Từ việc đọc ba bài thơ trong chùm thơ hai-cư, hãy viết đoạn văn (khoảng 150 chữ) trình bày về điều bạn cảm thấy thú vị nhất ở thể thơ hai-cư

Bài làm 1:

Haiku của Nhật Bản thể hiện sự gắn bó mật thiết giữa con người và thiên nhiên. Hầu hết các bài thơ trong haiku đều xuất hiện hình ảnh thiên nhiên. Ở haiku, thiên nhiên và con người có mối tương giao thầm lặng mà khăng khít. Cộng thêm hình thức cực tiểu, cô đọng và hàm xúc nên thơ haiku thường sử dụng quý ngữ (từ chỉ mùa). Hơn tất cả, cái hay của thơ nằm ở chỗ không bao giờ nói đủ tất cả và “chỉ gợi chứ không tả”. Mỗi bài thơ là mỗi cách cảm nhận riêng có của tác giả cũng như người đọc, tùy vào kinh nghiệm của cá nhân. Và haiku chấp nhận tất cả, miễn là có lí do hợp lí, cái mơ hồ và đa nghĩa ấy, không phải là nhược điểm mà là ưu điểm của thể thơ này.

Bài làm 2:

Có một thể thơ nó lướt qua tâm hồn ta, ta có cảm giác như đang chạm vào thiên nhiên, chạm vào từng mùa, đó là haiku. Đọc haiku là chạm vào hơi thở của mùa. Đó là chạm vào hoa đào, đom đóm, lá phong, tuyết trắng, chiều thu,… Thơ haiku là một thể thơ rất Nhật  Bản, là linh hồn văn hóa xứ Phù Tang. Cho nên nói đến văn học Nhật Bản, người ta không quên nói đến thơ haiku. Ngày nay thơ haiku không còn là của riêng dân tộc Nhật Bản mà nó lan tỏa khắp thế giới. Để rồi có nhiều người ngưỡng mộ và sáng tác theo thể thơ haiku.

Thơ haiku ra đời từ thế kỉ XVII và phát triển mạnh vào thời kì Edo (1603 – 1867). Thiền sư lỗi lạc Matsuo Basho được thừa nhận là người khai sinh ra haiku và Yosa Buson, Masaoka Shiki đã hoàn thiện nó dưới diện mạo và tên gọi như chúng ta thấy ngày nay.

Bài làm 3:

Các bài thơ haiku thường chỉ là những nét chấm phá, gợi mở để độc giả vận dụng trí tưởng tượng đến các sự vật, hiện tượng khác. Vì thế, nó được xem là một bức tranh thủy mặc. Nó chứa đựng một khoảng trống, một khoảng chân không nhưng tràn trề sự sinh động của cuộc sống:

Lá thủy tiên

dưới làn tuyết mới

nhè nhẹ trĩu mình

Vẽ lên một chiếc lá thủy tiên thôi mà ta cảm thấy được cả đời sống của cỏ cây, sự phân định của các mùa. Đó là do sự liên tưởng của người đọc. Cho đến nay, thơ haiku vẫn lôi cuốn người đọc nhiều nước trên thế giới bởi nội dung và nghệ thuật đặc sắc của nó. Haiku đã được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới để học và nghiên cứu. Người ta còn kết hợp haiku với hội họa. Thơ haiki là sản phẩm tinh thần riêng của người Nhật Bản, là niềm tự hào của đất nước Phù Tang, của xứ sở hoa anh đào.

Nội dung chùm thơ hai-cư Nhật Bản
Văn mẫu trình bày về điều bạn cảm thấy thú vị nhất ở thể thơ hai-cư

Phân tích Chùm thơ hai-cư Nhật Bản chi tiết và hay nhất

The POET Magazine tổng hợp các đoạn văn phân tích Chùm thơ hai-cư Nhật Bản học sinh không nên bỏ qua.

Phân tích bài Chùm thơ hai-cư Nhật Bản

Trong văn học Nhật Bản, thơ hai-cư chiếm một vị trí khá quan trọng. Thể thơ này ra đời và phát triển rộng rãi trong thời kì Phục hưng văn học thế kỷ XVII – XVIII và song hành với đời sống văn hóa Nhật. Lúc đầu thơ hai-cư bắt nguồn từ các thể thơ ca truyền thống như trường ca, hòa ca, đoản ca… Sau đó một phần của bài thơ trong các thể thơ này tách ra độc lập và tồn tại một thời gian dài không có tên gọi chính thức, đến khi nhà thơ Shiki (1867-1902) gọi đó là thơ hai-cư vào những năm cuối thế kỷ XIX rồi nó tồn tại cho đến ngày nay.

Đặc điểm nổi bật nhất của thơ hai-cư là ở cấu trúc ngắn gọn với 17 âm tiết (nguyên bản tiếng Nhật, khi phiên âm la tinh hay dịch sang tiếng Việt thì số âm tiết này có thể thay đổi), được sắp xếp theo thứ tự 5-7-5. Bởi quy định về cấu tứ ngắn gọn nên người làm thơ phải chọn lựa, chắt lọc những từ ngữ cô đọng tinh túy để diễn tả tâm trạng của mình khi viết về thiên nhiên, con người, tôn giáo hay các triết lí của tự nhiên…

Trong vườn thơ Nhật Bản, thơ hai-cư gắn liền với các tên tuổi tiêu biểu như: Buson, Chora, Chigô, Kikaku, Ba-sô…. Lần đầu tiên thơ hai-cư được đưa vào chương trình sách giáo khoa Ngữ văn lớp 10 ở nhà trường phổ thông nước ta với một số bài thơ tiêu biểu của nhà thơ Ba-sô. Mặc dù nằm ở phần đọc thêm nhưng sách giáo khoa và sách giáo viên đã có một hệ thống câu hỏi hướng dẫn tìm hiểu bài khá rõ ràng. Tuy nhiên, người viết bài này qua bước đầu tìm hiểu cũng có một cách hiểu, một vài điều muốn trao đổi cùng quý đồng nghiệp gần xa. Cũng cần nói thêm, người viết không có tham vọng trình bày như một bài soạn giảng mà chỉ chú trọng đến một số đặc điểm nghệ thuật của các tác phẩm như một nét chấm phá đơn sơ, mong rằng sẽ nhận được nhiều góp ý đáng kể. Ngoài những ý chính về nghệ thuật được các soạn giả trình bày trong sách giáo viên như: thủ pháp tượng trưng, chất triết lí, cảm thức thẩm mỹ, ngôn ngữ; thơ hai-cư còn có những đặc điểm nghệ thuật nổi bậc sau.

Ở hầu hết 8 bài thơ in trong sách giáo khoa, bước đầu tìm hiểu sơ bộ ta thấy lộ lên một số điểm chung, mà tiêu biểu là nghệ thuật sử dụng thủ pháp tương phản, đối lập giữa các cặp phạm trù: vũ trụ – con người, vô hạn – hữu hạn, không gian – thời gian, hữu hình – vô hình, có – không, đen – trắng, tĩnh – động, tối – sáng, nhất thời – vĩnh hằng… Chính sự tương phản đối lập đó nhà thơ đã làm nổi bậc một cách cụ thể những vấn đề được nói đến trong thơ, và đây cũng chính là một cách giải mã khám phá bài thơ theo một hướng thi pháp riêng.

Từ một cuộc hành trình trở về quê hương sau mười năm xa cách, cảm nhận chính nỗi lòng mình với quê hương, về những điều được mất trong cuộc đời, nhà thơ Ba-sô viết:

Đất khách mười mùa sương
về thăm quê ngoảnh lại
Ê-đô là cố hương.

Bằng trải nghiệm cũng như cảm nhận trong cuộc đời ở khoảng thời gian mười năm xa quê, nhà thơ khắc họa trước mắt chúng ta hai vùng đất khác nhau, hai khoảng không gian, thời gian xa vời; đất khách và quê hương, xưa và nay. Trước cái vô hạn của không gian thời gian ta bắt gặp cái hữu hạn trong cuộc sống con người khi tuổi mỗi ngày một qua đi, sự gắn bó với quê hương mỗi ngày một ngắn lại, từ đó nhà thơ cảm thấy yêu cuộc sống này hơn và “ngộ” ra một điều đâu cũng là quê hương. Ê-đô là cố hương. Như vậy trước cái hữu hình rộng lớn, nhà thơ biến thành cái vô hình nhỏ bé trong lòng tự mình biết để cảm nhận và diễn tả trải dài tình cảm nỗi niềm của mình đối với quê hương và đất nước. Bài thơ ngắn gọn còn là một triết lí sâu sắc trong quy luật tình cảm của con người với bất cứ nơi đâu khi bước chân mình đã qua, dù ngắn hay dài thì chuỗi thời gian ấy khó vơi trong mỗi chúng ta, một lúc nào đó chợt nhớ mình lại cảm thấy day dứt xót xa như còn mang một món nợ lớn trong đời.

Một lần ngang qua cánh rừng, nghe tiếng vượn hú não nề, nhà thơ nghĩ đến tiếng khóc của những em bé bị bỏ rơi trong khu rừng, ông viết:

Tiếng vượn hú não nề
hay tiếng trẻ bị bỏ rơi than khóc
gió mùa thu tái tê.

Bài thơ được cảm nhận bắt đầu từ giác quan thính giác. Tai nghe tiếng vượn hú rồi nhà thơ liên tưởng đến một điều có tính chất bức thiết trong cuộc sống con người( hay tiếng trẻ bị bỏ rơi). Đây không phải là sự chuyển đổi giữa nghe và nghĩ mà là một sự chuyển động giữa động và tĩnh: âm thanh bên ngoài, tiếng lòng sâu lắng của nhà thơ. Hai chi tiết tiếng vượn hú và tiếng trẻ bị bỏ rơi giữa cơn gió mùa thu tạo cho người đọc cảm nhận được một bức tranh trong bài thơ vừa thật vừa ảo. Cái ảo là khoảng âm thanh không rõ ràng trong nhất thời, cái thực là chính là tiếng lòng của con người với thời cuộc nhân sinh tồn tại vĩnh hằng trong cuộc đời vốn có nhiều điều chưa nói hết. Bài thơ giản dị trong sáng nhưng ý nghĩa tư tưởng lại vượt ra ngoài lớp vỏ ngôn từ chật hẹp gò bó khô khan.

Một lần khi mùa xuân đến, cảm nhận cánh hoa đào rơi lả tả bên hồ Bi-oa, nhà thơ viết.

Từ bốn phương trời xa
cánh hoa đào lả tả
gợn sóng hồ Bi-oa.

Bút pháp trong bài thơ thể hiện trước hết là ở sự tương phản đối lập giữa không gian vũ trụ bao la (bốn phương trời xa) với những cái gì nhỏ bé hạn hữu trong đời sống thường ngày (cánh hoa rơi, mặt hồ gợn sóng). Nghệ thuật bài thơ còn thể hiện ở bút pháp động và tĩnh, giữa sáng tối, không gian và thời gian, thiên nhiên và con người… Người đọc cảm nhận một bức tranh non nước thiên nhiên hữu tình tinh tế có pha chút thiền tông phật giáo. Bài thơ còn thể hiện một triết lí tương giao giữa sự vật hiện tượng với vũ trụ làm cho hồn thơ nhẹ nhàng bay bổng lay tận chiều sâu trái tim người đọc.

Có thể dẫn một bài thơ hai-cư khác của Ba-sô cũng tương tự.

Trên cành khô
cánh quạ đậu
đêm thu.

Cả ba sự vật: con quạ, cành cây khô, đêm thu đã có sự đối lập tạo nên một khung cảnh thật ảm đạm. Con quạ đậu trên cành cây khô trụi lá vào đêm thu đã cuốn hút con người vào cõi mông lung tàn tạ. Mặt khác bài thơ không chỉ là nỗi buồn mà còn là sự tương phản giữa màu đen con quạ nhỏ xíu và màn đêm bao la hiu quạnh, con người cảm thấy nhỏ bé trước không gian rộng lớn bao la…

Thơ hai-cư chỉ là những nét chấm phá đơn giản, mạch logic của bài thơ có nhiều khoảng trống tạo sự liên tưởng cảm nhận ở người đọc. Chất liệu và đối tượng được đề cập trong thơ cũng không có gì cao xa lạ lẫm mà chỉ bình thường như : thiên nhiên con người, trăng tuyết hoa chim vượn khỉ, còn có cả bùn đất cỏ cây…Khi nghe tiếng chim đỗ quyên nhà thơ giật mình

Chim đỗ quyên hót
ở kinh đô
mà nhớ kinh đô.

Tiếng chim là tín hiệu gợi nhớ của lòng người trong thơ ca từ xưa đến nay. Cũng thế, Ba-sô một lần nghe tiếng chim để rồi khoảng trống trong lòng lại ùa về như một kí ức day dứt khó quên. Điều dễ nói cũng là điều khó nói, thế mà nhà thơ đã thốt thành lời. Ở đây ý thơ chưa diễn đạt hết mọi cung bậc đến tận chiều sâu tâm hồn nhưng khoảng lặng đã làm cho lòng ta tự hỏi tiếng chim hay tiếng lòng của nhà thơ? Chủ thể trữ tình bị xóa nhòa, ranh giới giữa quê hương và con người được bắt cầu bằng tiếng chim đỗ quyên trong mùa hè, dưới chiếc cầu đó là dòng sông lòng cuồn cuộn chở bao nhiêu phù sa bồi đắp cho quê hương.

Từ chất liệu đơn giản, ý thơ bộc phát, sự liên tưởng của nhà thơ có tính chất nhân văn hướng về đồng loại cộng đồng dân tộc hay những vấn đề lớn lao trong tư tưởng tình cảm của con người.

Mưa đông giăng đầy trời
chú khỉ con thầm ước
có một chiếc áo tơi.

Rõ ràng ước muốn của chú khỉ trong bài thơ hoàn toàn do chủ quan nhà thơ nghĩ giúp. Đó là sự tưởng tượng khi đang nhìn thấy chú khỉ ngồi ướt nhem bên vệ rừng khi nhà thơ đi qua. Chú khỉ đơn độc cũng là hình ảnh của người nông dân, những trẻ em Nhật trong cơn mưa đông lạnh lẽo. Nốt lặng của bài thơ được thể hiện qua những hình ảnh đơn sơ mộc mạc, là tấm lòng của con người với những sinh vật bé nhỏ tội nghiệp và đó cũng chính là lòng yêu thương đối với những người nghèo khổ.

Nhà thơ Chiyo viết

A! Hoa Asagao
dây gầu vương hoa bên giếng
đành xin nước nhà bên.

Ta thấy chất liệu cấu tứ hình ảnh bài thơ vô cùng đơn giản. Ẩn đằng sau từng âm tiết là sự ý thức nhạy cảm, là tấm lòng của nhà thơ trước sự lung linh kỳ diệu của những cánh hoa trong một buổi sớm tinh mơ. Nhà thơ không muốn làm tan biến cái đẹp (Đành xin nước nhà bên) âu cũng là điều dễ hiểu, bởi thiên nhiên đẹp, con người nâng niu và trân trọng cái đẹp trong cuộc sống vốn là một điều không lạ trong thơ ca truyền thống Á Đông. Bài thơ còn là một thông điệp gửi đến mọi người, mong mọi người hãy nâng niu cái đẹp ngay chính bên cạnh mình.

Trong thơ hai-cư ngoài một số bài có những cụm từ quý ngữ (từ chỉ mùa) cụ thể như hoa đào – mùa xuân, tiếng ve – mùa hè… còn có nhiều bài không có. Những bài này chỉ có một số từ ngữ gợi mùa như: mù sương trong bài số 1 gợi mùa thu, chim đỗ quyên trong bài số 2 gợi nhớ mùa hè, cánh đồng hoang vu bài 8 gợi nhớ mùa đông… Nhận xét về thơ hai-cư Nhật Bản, nhà thơ Tagore (Ấn Độ) cho rằng, trong thơ hai-cư “nhà thơ chỉ giới thiệu đề tài rồi bước nhanh sang một bên”. Như vậy những từ này có khi được coi là đề tài, là điểm sáng, “là con mắt” để khám phá nội dung và nghệ thuật của bài thơ. Chỉ vài nét chấm phá thời gian, người đọc có thể nắm bắt đề tài, tạo sự liên tưởng một cách dễ dàng.

Vắng lặng u trầm
thấm sâu vào đá
tiếng ve ngâm.

Tiếng ve ngâm là mùa hè, tiếng ve ngâm lại thường diễn ra vào buổi chiều nên ta dễ dàng nhận ra nội dung của bài thơ là tiếng ve im lắng cất lên trước cảnh đá vật nơi cửa thiền trong một buổi chiều chưa tắt nắng gợi cho con người một nỗi lòng u tịch mênh mông, lúc đó con người có thể ngộ ra một điều gì trong cuộc sống cho riêng mình. Nghệ thuật của bài thơ là sức gợi, là tính liên tưởng, là phương pháp suy luận. Nghệ thuật bài thơ cũng là tiếng nói, là nỗi lòng, là tâm tư tình cảm con người gửi gắm với công chúng yêu thơ hôm nay và mai sau…

Giải mã và tìm hiểu thơ hai-cư, một thể thơ nổi tiếng trong thơ ca Nhật Bản và thế giới là một điều vốn rất khó. Trên đây chỉ là những nét chấm phá có tính chất chủ quan của người viết đối với những bài thơ hai-cư trong sách giáo khoa Ngữ văn lớp 10. Đây cũng chỉ mới là bước tìm hiểu ban đầu, có lẽ còn nhiều điều chưa thỏa đáng, mong rằng quý thầy cô, quý đồng nghiệp sẽ có tiếng nói sâu hơn, góp phần đưa thể thơ này đến với người đọc một cách thật gần gũi.

Đã nhiều thế kỉ trôi qua nhưng tôi tin chắc rằng thơ hai-cư Nhật Bản mãi mãi sẽ là một viên ngọc quý ở xứ sở “mặt trời mọc” với công chúng yêu thơ.

Phân tích bài Chùm thơ hai-cư Nhật Bản

Ta đã nghe đâu câu nói: “Thơ ca là tiếng hát của trái tim, là nơi dừng chân của tinh thần, do đó không đơn giản mà cũng không thần bí, thiêng liêng… Thơ ca chân chính phải là nguồn thức ăn tinh thần nuôi tâm hồn phát triển, nó không được là thứ thuốc phiện tinh thần êm ái, nhỏ nhen mà độc hại”. Thật vậy, nghệ thuật thơ ca sinh ra từ cái nôi đời sống nhưng lại phát triển trong tâm hồn của con người. Cùng với sự phát triển ấy, thơ nuôi dưỡng và giáo dục con người ta theo đúng cái nghĩa nhân văn của nghệ thuật. Thơ mang vẻ đẹp tinh xảo của nghệ thuật ngôn từ, tuy nhiên thơ không chỉ là vậy! Con chữ không thể là cái xác khô nằm “yên nghỉ” trên trang giấy; mà thơ phải sống trong lòng độc giả, gieo vào đó hạt giống của những điều tốt đẹp. Chứ thơ không thể “chết” trên trang giấy và để lại nơi tâm hồn con người ta sự đen tối, độc hại và điêu tàn. Tất cả những điều ấy như thể đang nói về thơ Haiku-giai điệu đã ngân vang hàng thế kỉ qua ở xứ sở hoa anh đào.

Thơ là một thể loại văn học nảy sinh rất sớm từ đời sống con người, “thi” và “nhân” ở giữa vòng liên đới không thể nào tách rời khỏi nhau, nó giống như một mối quan hệ cho dù người ta có cố gắng giằng xé đến đâu thì thơ với đời sống vẫn quấn quýt không rời. Trong cuộc “hôn phối” kéo dài cả thiên thu ấy thơ đã “chăm sóc” con người ta bằng sự nhận thức đối với cuộc sống, khả năng gợi cảm sâu sắc, vừa trực tiếp với những cảm xúc suy nghĩ cụ thể, vừa gián tiếp qua những liên tưởng, tưởng tượng phong phú và bằng cả sự rung động của ngôn từ giàu tính nghệ thuật. Đi vào trong kho tàng văn hoá Á Đông vĩ đại, giàu sang và trở thành một tài sản vô giá của nền văn hóa Nhật Bản theo một cách rất riêng, thơ Haiku là kết tinh nhiều giá trị văn hóa tinh thần của người Nhật nói riêng và người phương Đông nói chung. Xuất hiện vào khoảng thế kỉ XVII và thịnh hành vào thời kỳ Edo những năm 1603-1867 thơ Haiku mang hơi thở của Thiền tông, in đậm dấu ấn của thế giới u huyền, thoát tục, đồng thời chứa đựng trong mình bức tranh thiên nhiên rộng lớn với những âm thanh màu sắc đặc trưng cho bốn mùa, được thể hiện dưới một hình thức ngắn gọn, cô đọng.

Linh hồn của văn học Nhật Bản không phô trương, hoa mỹ về mặt hình thức bởi mỗi bài thơ chỉ vỏn vẹn 17 âm tiết. Tuy vậy, sức chứa về mặt tư tưởng, triết lí nhân sinh của thơ Haiku lại vô cùng sâu và rộng. Nhà thơ Tago từng nhận xét về thơ Haiku: “Nhà thơ chỉ giới thiệu đề tài, rồi bước tránh sang bên”. Chẳng cần phải nói nhiều bởi tâm hồn con người ta là phong phú, hãy để bạn đọc tự vẽ ra thế giới mà họ mong muốn. Thơ thiên về gợi hơn là miêu tả và diễn giải. Sức sống và sự hấp dẫn của Thơ Hai -cư nằm ở khả năng kiệm lời mà vẫn khơi gợi nhiều cảm xúc suy nghĩ. Tưởng chừng như cô đọng làm thơ Haiku thêm nặng nề, nhưng không! Thơ Haiku lại nhẹ nhàng, bay bổng đến kì lạ. Sự nhẹ nhàng ấy đến từ tâm hồn yêu thiên nhiên, muốn hoà hợp với đất trời được thể hiện qua “quý từ” chỉ mùa mà bài thơ Haiku nào cũng có.

Đến với đất nước Nhật Bản là đến với xứ sở huyền bí của Thần đạo với vô số các tập tục và nghi lễ; với vẻ đẹp lãng mạn của những cánh hoa anh đào nở rộ nên còn gọi là “Xứ sở hoa anh đào”; với những “Thiếu nữ duyên dáng trong tà áo Kimono”. Đây còn là xứ sở dũng mãnh của “Truyền thống võ sĩ đạo” và “Kiếm đạo”, của những môn phái võ thuật nổi tiếng như: Sumo, aikido, karate, judo. Trên sân khấu kịch Nô là những gương “Mặt nạ” người trầm lặng không nói và bất động. Chúng ta sẽ bị chìm đắm trong những trang tiểu thuyết dài hàng nghìn trang nhưng lại ấn tượng với những vần thơ hai-cư cực ngắn gắn liền với tên tuổi của Basho, Chiyô, Issa…với những nét thơ riêng nhưng chung quy lại đều là sự tinh tế của tâm hồn người Nhật.

Thơ Haiku có rất nhiều đặc tính nhưng điều làm Bashô – nhà thơ có công lớn trong việc hoàn thiện thơ Haiku để tâm hơn cả đó chính là cảm thức về sự tịch mịch, sâu xa vô hạn của sự vật, nhìn thấy sự vật tự bộc lộ một cách kì diệu, cảm thức ấy được gọi với cái tên Sabi-niềm cô đơn huy hoàng được Bashô thể hiện sâu thẳm nhất trong bài thơ:

“Trên cành khô
Chim quạ đậu
Chiều thu”

Thoạt nghe ta thấy bài thơ như một bức tranh thuỷ mặc với gam màu trầm tối, lạnh lẽo. “Cành cây khô” và “chim quạ đậu” dường như đã mang hết thảy những đặc điểm của một “chiều thu” u buồn. Thu về lá cây như trút hết khỏi cành chỉ để lại sự gầy guộc, khẳng khiu vô cùng. Nó như chừa lại chỗ đứng cho chim quạ với cái màu đen tuyền và con mắt sắc lẹm. Nếu như thơ Nguyễn Khuyến khiến chúng ta liên tưởng đến một mùa thu với sự lạnh lẽo, trong trong trẻo như trong câu:

“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo”

(Thu điếu-Nguyễn Khuyến)

Thì ở đây Ba-sô cũng gợi ra cho ta những hình ảnh như vậy nhưng với một cảm giác khác hoàn toàn. Một chiều thu sầu não, vắng lặng đến cô tịch khiến lòng ta phải cảm thấy u hoài. Nhưng thật kì lạ, bày ra trước mắt là cái vẻ cô liêu nhưng tâm hồn ta lại chẳng hề thấy chán chường hay bi luỵ, oán đời. Khác với Xuân Diệu trong “Đây mùa thu tới”:

“Mây vẩn từng không, chim bay đi
Khí trời u uất hận chia li”

Đây chính là cảm thức Sabi, một cảm thức hùng vĩ chứ không phải nỗi cô đơn, bi luỵ cá nhân. Đọc bài thơ ta mới hiểu thế nào là chất Sa-bi đơn sơ, tao nhã, cô liêu đến tiêu điều nhưng lại chẳng đem cho ta cái cảm giác đau khổ.

Nhắc đến Nhật Bản là nhắc đến xứ sở hoa anh đào, mặt trời mọc, áo kimono, nhắc đến một dân tộc thấm đẫm chất thiền, mà thơ Haiku như là một biểu trưng. Ví như Đường luật của Trung Hoa hay Lục bát của Việt Nam mỗi nền văn hoá đều có những tư tưởng, đặc trưng riêng. Nhưng chúng ta biết rằng văn hóa không có cao hay thấp mà chỉ có sự khác biệt. Cũng vậy, hoa triêu nhan từ địa vị ăn nhờ ở đậu trong mắt người Việt, thì sang văn hóa Nhật Bản đã vươn lên ngôi nữ hoàng kiêu hãnh. Điều đó được chứng minh qua hàng loạt bài thơ Haiku. Hãy khoan nhắc đến những kiệt tác của thi sĩ Basho, bài thơ đặc sắc nhất gắn liền với hoa triêu nhan trong thơ Haiku có lẽ phải là bài thơ của nữ sĩ Chiyo:

“Ôi hoa triêu nhan
Dây gầu vương hoa bên giếng
Đành xin nước nhà bên.”

Trong tinh thần của Thiền tông, không chỉ loài người hữu tình mà ngay cả loài cây cỏ cũng có khả năng giác ngộ, tức là có Phật tính. Bài thơ trên có thể được xem như một tuyên ngôn hùng hồn của lòng từ bi Phật giáo và phảng phất triết lý của Thiền Tông. Hoa triêu nhan vốn là một loại dây leo, đã quấn vào dây gàu để nở. Trước cái đẹp, trước sự sống, nhà thơ nâng niu, trân trọng, không nỡ làm tổn thương nên bà chọn giải pháp “xin nước nhà bên”, để sự sống và cái đẹp được hiện hữu. Một người lỗ mãng sẽ dễ dàng bứt nhánh triêu nhan để thuận lợi cho công việc múc nước của mình.

Bài thơ không giải thích nhưng tự thân sự kiện đã nói nhiều hơn ba câu thơ ngắn ngủi. Đây chính là tinh thần ý tại ngôn ngoại, lại cũng chính là sự vô ngôn của Thiền và là tính nhân văn của Phật giáo. Cần phải có một nội tâm tĩnh lặng, một tính cách dịu dàng và hơn cả là một tình thương lớn, một tấm lòng trắc ẩn lớn mới có cách hành xử như vậy. Một đóa triêu nhan mỏng manh làm tỏa sáng một tình thương mênh mông và cảm động. Sức sống mãnh liệt của đóa triêu nhan cũng chính là nguồn cảm hứng sáng tác cho nhà thơ Lưu Đức Trung với bài thơ Haiku:

“Bìm bìm
Leo trên bờ ao
Tay ai vớt bèo”

Tạm chia tay với đóa triêu nhan xinh đẹp của nữ sĩ Chiyo, đào sâu vào kho tàng thơ Haiku phong phú và đồ sộ ta bắt gặp một con ốc miệt mài leo núi Phú Sĩ trong bài thơ của Issa-một trong bốn nhà thơ Haiku vĩ đại nhất của Nhật Bản:

“Chậm rì chậm rì
Kìa con ốc nhỏ
Trèo núi Fuji”

Nhà phê bình văn học nổi tiếng Belinxki từng tâm đắc: “Nhà thơ, ngay cả các nhà thơ vĩ đại nhất cũng phải đồng thời là những nhà tư tưởng”. Như một minh chứng rõ ràng, chỉ với 1 bài thơ Haiku ngắn gọn kết hợp với việc sử dụng hình ảnh ẩn dụ của con vật nhà thơ Issa đã truyền tải thông điệp sâu sắc, triết lý, đầy nhân văn.

“Chậm rì, chậm rì” lời miêu tả chân thật, chính xác của nhà thơ dành cho chú ốc. Nhưng trong cái “chậm” ấy ta thấy được sự kiên nhẫn. Bản thân chỉ là một con ốc nhỏ di chuyển vô cùng chậm chạp, tuy chậm nhưng lại không dừng lại mà cứ đi mãi. Cùng với sự chậm chạp ấy là sự xuất hiện nhỏ bé, bình dị của chú ốc nhỏ. Trong thơ Haiku, việc sử dụng nghệ thuật tương phản cũng là một nét đặc trưng rất độc đáo. Đó là sự đối lập tương phản giữa cái vô hạn – hữu hạn, giữa không – có, giữa cái lớn – bé, xa – gần, con người – vũ trụ… Trong bài thơ “Ao cũ”, Ba-sô viết:

“Ao cũ
Con ếch nhảy vào
Vang tiếng nước xa”

Nhà thơ Issa cũng không nằm ngoài vòng đặc trưng ấy, trước cái nhỏ bé bình dị của chú ốc nhỏ là cả núi Phú Sĩ tuyết trắng hùng vĩ. Sự đối lập giữa lớn-nhỏ đã khiến cho chúng ta có nhiều suy tưởng. Trên thực tế cuộc sống, mỗi người đều là chú ốc nhỏ bé bình dị nhưng đều ấp ủ một giấc mơ cháy bỏng của riêng cuộc đời mình. Sức mạnh nội tại của chính bản thân chúng ta là nguồn sức mạnh động lực để thúc đẩy đưa chúng ta lên đến đỉnh cao của cuộc đời mình. Nếu mục tiêu của chú ốc nhỏ là chinh phục được núi Phú Sĩ thì ắt hẳn trong mỗi chúng ta đều có một đỉnh cao mà bản thân muốn chinh phục.

Bài thơ tuy ngắn gọn, hàm súc. Tứ thơ tối giản, chật chội về mặt từ ngữ nhưng ý vị của thơ Haiku không bao giờ là chật. Các sự việc được phản ánh trong thơ haiku có khi tưởng như rời rạc, không liên kết với nhau, nhưng thực ra giữa chúng có mối liên kết chặt chẽ từ bên trong. Từ “sự tinh giản của tâm hồn” (A.Tagor), thơ haiku đã tạo nên sức mạnh nghệ thuật to lớn. Chính vì thế, nhà nghiên cứu phê bình Roland Barther (Pháp) nhận xét: “Sự ngắn gọn của haiku không phải là vấn đề hình thức. Haiku không phải là một tư tưởng phong phú rút vào một hình thức ngắn mà là sự tin vắn tắt tìm ra được hình thức vừa vặn cho mình”. Hơn hết chính sự giản kiệm này là sự tôn trọng độc giả của các nhà thơ Haiku. Trên đường thơ, họ nhường lối cho người đọc, không lấn chiếm không làm nghẽn đường. Người đọc đi cùng nhà thơ và vẫn còn đi tiếp khi nhà thơ dừng lại. Tagor còn giải thích thêm rằng:

“Lý do khiến nhà thơ rút lui nhanh chóng thế vì người đọc Nhật có quyền năng tinh thần về tưởng tượng rất lớn”.

Lời nhận xét của thi hào người Ấn có thể sẽ khiến những độc giả không phải người Nhật thấy chạnh lòng, nhưng khả năng đọc và thấu hiểu thơ Haiku không phải là đặc quyền của riêng người Nhật. Bất cứ ai cũng có thể thấu hiểu và yêu mến thơ Haiku, nhưng muốn thế, người đọc không có quyền thụ động. Nhà thơ không nói hộ ta tất cả. Cuộc nói chuyện hết lời cạn ý nào mà chẳng chán. Trò chuyện với thơ lại càng không thể để cho niềm chán ngán ấy nổi dậy.

Cũng như bao thể thơ khác, thơ Haiku đến với văn hoá của người Nhật như một mối cơ duyên trùng phùng vậy. Thơ bắt nguồn từ đời sống, đi qua những chặng đường dài để đến với độc giả và sau cùng lại trở về với đời sống với một vai trò là một “người mẹ” chứ không phải là một “đứa con” như thuở trước. Thơ trở về “đất mẹ” với trọng trách cao cả là giáo dục và tái tạo lại con người và xã hội. Cho nên trong quá trình “mở đường” cho thơ quay trở lại độc giả cần “mở lòng” đón nhận thơ bằng tất cả những gì mình có. Khoan đổ lỗi cho nhà thơ sáng tác tệ, khoan đổ lỗi cho bài thơ không hay, hãy tự xem rằng bản thân đã nâng tâm hồn lên gần với thi sĩ hay chưa? Đã góp công vào quá trình đồng sáng tạo nghệ thuật hay chưa? Khi đã ý thức được điều ấy, hãy để thi ca, nghệ thuật trở về với cuộc đời.

Người Nhật thực sự đã mở ra một con đường trải đầy những cánh anh đào cho thơ Haiku xuất hiện vào bốn thế kỉ trước quay trở lại với đời sống của người dân Nhật Bản, hơn thế con đường ấy đưa thơ Haiku đi vào ngôi đền của những điều vô giá.

Cho đến ngày nay, thơ Haiku Nhật Bản vẫn lôi cuốn người đọc nhiều nước trên thế giới bởi nội dung phong phú và nghệ thuật đặc sắc của nó. Đồng thời thể thơ này vẫn được nhiều người bắt chước sáng tác, nhưng không ai có thể vượt qua được thơ haiku Nhật Bản với những thi hào nổi tiếng. Thơ haiku là sản phẩm tinh thần riêng của người Nhật là niềm tự hào của đất nước Phù Tang, của xứ sở hoa anh đào.

soạn bài chùm thơ hai-cư Nhật Bản
Phâm tích Chùm thơ hai-cư Nhật Bản

Phân tích Chùm thơ hai-cư Nhật Bản từng đoạn thơ

Đoạn 1:

Trên cành khô

Con quạ đậu

Chiều thu

Bài thơ được sáng tác vào năm 1679 khi Ba-sô ba mươi năm tuổi. Tác giả sử dụng mĩ ngữ chỉ chiều thu kết hợp với hình ảnh cành khô gợi sự trơ trụi, không lá vàng và cũng chẳng có chồi non, Hình ảnh “con quạ” gợi sự tang thương và u ám. Cảnh chiều thu thật đơn sơ và sâu lắng, cô tịch đến tàn úa. Hình ảnh “con quạ” gợi ra hình ảnh nhỏ bé, ngoài ý nghĩa tả thực đã trở thành hình ảnh giàu tính tượng trưng. Biểu tượng của sự cô đơn, cô độc giữa đất trời rộng lớn. Bài thơ tạo nên sức ám ảnh kì lạ cho độc giả, tác động mạnh mẽ đến người đọc. Tác giả đã sử dụng bút pháp chấm phá gợi hơn là tả, vẽ ra một bức tranh thủy mặc đơn sơ mà sâu thẳm.

Đoạn 2:

Ôi hoa triêu nhan

Dây gàu vương hoa bên giếng

Đành xin nước nhà bên.

Hoa Triêu Nhan trong văn hóa Nhật Bản được xem như một nữ hoàng đầy kiêu hãnh. Hoa triêu nhan vốn là một loại dây leo, đã quấn vào dây gàu để nở. Trước cái đẹp, trước sự sống, nhà thơ nâng niu, trân trọng, không nỡ làm tổn thương nên chọn giải pháp “xin nước nhà bên”, để sự sống và cái đẹp được hiện hữu. Một người lỗ mãng sẽ dễ dàng bứt phá nhánh triêu nhan để thuận lợi cho công việc múc nước của mình. Thực tại được mô tả như nó chính là, không giải thích nhưng tự thân sự kiện đã nói nhiều hơn ba câu thơ ngắn ngủi.

Cần phải có một nội tâm tĩnh lặng, một tính cách dịu dàng và hơn cả là một tình thương lớn, một tấm lòng trắc ẩn lớn mới có cách hành xử như vậy. Một đóa triêu nhan mỏng manh làm tỏa sáng một tình thương mênh mông và cảm động.

Đoạn 3:

Chậm rì, chậm rì

Con ốc nhỏ

Trèo núi Phu-gi

Câu thơ đầu tiên sử dụng điệp ngữ “chậm rì” để miêu tả trạng thái chậm chạp, kiên nhẫn, chầm chầm của chú ốc sên nhỏ. Câu thơ thứ hai “Con ốc nhỏ” thể hiện sự xuất hiện nhỏ bé, bình dị của chú ốc nhỏ. Trạng thái chậm rì được đảo lên câu thơ đầu để nhấn mạnh trạng thái, đặc điểm của chú ốc bình dị nhỏ bé ấy. Câu thơ thứ ba “Trèo núi Phu-gi” chỉ có ba chữ tái hiện hình ảnh ngọn núi Phú Sĩ – biểu tượng của Nhật Bản.

Bài thơ ngắn gọn súc tích, với hình thức động đáo đã truyền tải thông điệp mang đầy tính nhân văn đến người đọc. Trên thực thế cuộc sống, mỗi người đều là chú ốc nhỏ bé bình dị nhưng đều ấp ủ một giác mơ cháy bóng của riêng cuộc đời mình. Sức mạnh nội tại của chính bản thân chúng ta là nguồn sức mạnh độc lực để thúc đẩy đưa chúng ta lên đến đỉnh cao của cuộc đời mình. Nếu như chú ốc sên khát khao chinh phục núi Phú Sĩ thì mỗi người đều có một đỉnh cao của cuộc đời mình mà muốn chinh phục. Điều mà chúng ta cần làm đó chính là luôn luôn cố gắng không ngừng nghỉ trên hành trình, nỗ lực hết sức mình trên hành trình chinh phục lí tưởng sống của mình. Ta có thể đi chậm hơn so với người khác nhưng điều quan trọng đó chính là to không ngừng lại mà luôn nỗ lưc, kiên trì đến cùng với ước mơ của mình. Đó chính là điều làm nên ý nghĩa của cuộc sống của chúng ta. Bài thơ không chỉ có hình thức ngắn gọn mà còn truyền tải thông điệp ngắn gọn, sâu sắc và đầy tính nhân văn.

Vài kiến thức cơ bản về thơ hai-cư

Vẻ đẹp tịch liêu (sabi) trong lối lên miền Oku – Matsuo Basho

Basho là một haijin (người sáng tác haiku) nổi tiếng của Nhật Bản. Ông là người có công đưa haiku lên địa vị lừng lẫy trên thi đàn thế giới. Thị tập quan trọng góp phần định hình phong cách Tiêu phong (Tofu) cũng như giúp Basho trở thành một trong tứ trụ haiku Nhật Bản (Basho – Buson – Issa – Shiki) chính là Lối lên miền Oku (Oku no hoshomichi). Đây là một tác phẩm thuộc thể kí có lời kể, có chi tiết, sự kiện, có phác họa chân dung… nghĩa là có chất tự sự. Tuy nhiên, nó cũng thật sự là một tác phẩm trữ tình, với văn xuôi haibun kết hợp cùng thơ haiku, với những bức tranh tràn ngập hình ảnh thiên nhiên mà qua đó, cái tôi trữ tình của tác giả được bộc lộ vừa chân thành mộc mạc, vừa kín đáo tinh tế.

Hình ảnh thiên nhiên trong Oku no hoshomichi rất đa dạng, phong phú: từ hình ảnh mùa xuân đến mùa đông; từ không gian biển khơi đến rừng sâu, thời thẳm; từ cái nhỏ bé tầm thường như chấy bọ, vỏ hến, xác hoa đến cái lớn rộng vĩ địa như sông Mogami hay dải Ngân Hà… Hình ảnh trong Oku no hoshomichi không chỉ thể hiện vẻ cô liêu, quạnh hiu, u buồn mà còn thể hiện vẻ thanh tú, tao nhã, tươi đẹp, đam mê. Có lẽ vì vậy mà Basho được mệnh danh là “thi sĩ của cái ao xưa, của biển Sado hoang sơ hay của đồng cỏ dại”. Đây là những hình ảnh biểu tượng cho một vẻ đẹp lí tưởng mà mĩ học Nhật Bản gọi là sabi.

Về từ vựng, sabi vốn được danh từ hóa từ động từ sabu có nghĩa là suy tàn, phai nhạt theo thời gian. Sabi cũng có nghĩa là trạng thái tĩnh lặng khi con người qua đời cũng có nghĩa là lớp mốc xanh trên đồ đồng xưa. Fujiwara no Toshinari (1114 – 1204), Zeami (1363 – 1443), Zenchiku (1405 – 1468) thống nhất quan điểm cho rằng sabi là tịch lặng, hoang liêu, cô quạnh, tự nhiên (tịch). Zenchiku dùng từ sabu để miêu tả cảnh đám lau sậy ven biển lụi tàn vì sương gió. Sen no Rikyu – bậc thầy trà đạo XVI, thường ghép wabisabi để đề cao vẻ đẹp tự nhiên, đơn giản. Nhật Chiêu trong cuốn Văn học Nhật Bản từ khởi thủy đến 1868 nhấn mạnh: “Sabi (tịch) là linh hồn của tịch liêu và xa xưa. Đó là niềm tịch tĩnh mà trong những kinh nghiệm thiền quán, người ta cảm thấy”. Trong cuốn tản văn Ca tụng bón tối, Junichiro Tanizaki đã nêu lên niềm yêu thích của người Nhật dành cho những đồ vật mang dấu vết của bụi bặm, bồ hóng và khí hậu, màu sắc và lớp bóng gợi nhắc đến quá khứ đã tạo ra chúng, một vẻ đẹp nhuốm màu thời gian. Đến Basho, ngoài những ý nghĩa trên, nhà thơ đã bổ sung thêm ý nghĩa tươi đẹp, tao nhã, ấn tượng (nhã) cho sabi. Hình ảnh thiên nhiên cô quạnh trong tập Lối lên miền Oku có sự kết hợp hài hòa giữa tinh thần hòa tan bản ngã vào thiên nhiên của Thiền tông và tinh thần tìm linh hồn cái đẹp trong thảo mộc của Thần đạo. Cảm thức đó thể hiện đậm nét trong tập thơ đến độ được Nhật Chiêu khẳng định: “Mỗi bài haiku trong tác phẩm dường như đều thấm nhuần cảm thức sabi”.

Xem thêm:

  • Thu hứng (Cảm xúc mùa thu): Tác giả, tác phẩm, nội dung chính
  • Chữ người tử tù lớp 10: Hoàn cảnh sáng tác, tóm tắt cốt truyện

Kết luận

Hướng dẫn soạn bài, dàn tác phẩm và phân tích Chùm thơ hai-cư Nhật Bản đã được cập nhật chính xác. Học sinh theo dõi và soạn bài đầy đủ để nắm được các thông tin chính của tác phẩm.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *