20 + Bài thơ Huỳnh Văn Nghệ hay không thể bỏ qua

Thơ Huỳnh Văn Nghệ chủ yếu viết về chủ đề kháng chiến và người lính. Ông có một hồn thơ đẹp, cốt cách lạ lùng vừa hồn hậu lại vừa mạnh mẽ ngang tàn. Bộ sưu tập những bài thơ, tác phẩm tiêu biểu của thi tướng Huỳnh Văn Nghệ sẽ giúp bạn hiểu rõ hơn.

15 bài thơ Huỳnh Văn Nghệ hay nhất

Thơ Huỳnh Văn Nghệ mang nét riêng độc đáo nhưng vẫn chứa đựng nét chung của thời đại như bao nhà thơ cùng thế hệ khác. Ông tập trung khai thác chủ đề chiến trận đến mức “Lòng ta say chiến trận đã thành thơ”.

Dưới đây là tuyển tập 15 tác phẩm hay xuất sắc của thi tướng Huỳnh Văn Nghệ bạn không thể bỏ qua:

1/ Nhớ Bắc

Ai về xứ Bắc ta đi với
Thăm lại non sông giống Lạc Hồng
Từ độ mang gươm đi mở cõi
Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long

Ai nhớ người chăng? Ôi Nguyễn Hoàng!
Mà ta con cháu mấy đời hoang
Vẫn nghe trong máu hồn xa xứ
Non nước Rồng Tiên nặng nhớ thương.

Vẫn nghe tiếng hát thời quan họ
Xen nhịp từng câu vọng cổ buồn
Vẫn thương vẫn nhớ mùa vải đỏ
Mỗi lần phảng phất hương sầu riêng

Sứ mạng ngàn thu dễ dám quên
Chinh Nam say bước quá xa miền
Kinh đô nhớ lại xa muôn dặm
Muốn trở về quê, mơ cảnh tiên.

Ai đi về Bắc xin thăm hỏi
Hồn cũ anh hùng đất Cổ Loa
Hoàn Kiếm hồ xưa linh quy hỡi
Bao giờ mang trả kiếm dân ta

Lời bình: 

Nhớ Bắc là tác phẩm tiêu biểu của Huỳnh Văn Nghệ, thể hiện nỗi nhớ da diết về quê hương miền Bắc, dù ông đang ở chiến khu miền Nam. Bài thơ vừa chân thực, vừa lãng mạn, khơi dậy tình cảm sâu nặng của người con xa quê, thể hiện tình yêu quê hương và lòng trung thành với cách mạng.

Thơ Huỳnh Văn Nghệ
Nhớ Bắc – Bài thơ tiêu biểu của Huỳnh Văn Nghệ

2/ Sông Đồng Nai

Đồng Nai sông nước anh hùng.
Nguồn xa, xa tận núi rừng hoang vu.
Lệ tiên kết đọng hồ sâu
Còn mơ cao rộng nhớ màu gió trăng

Xông pha vượt núi băng ngàn,
Gặp Là Ngà nghĩa bạn vàng kết đôi
Thề: “Dù trắc trở núi đồi
Cũng liều sống thác tìm trời tự do…”

Đôi lòng nặng chí giang hồ
Ngàn thu say bước trở về biển xanh.
Đường xa lên thác xuống gành
Ruộng đồng lưu luyến thị thành mến ưa.

Lệ đời tràn ngập hồn thơ
Bao phen lũ hận bẻ bờ đau thương.
Gió ngang, thuyền ngược trăm đường
Đồng Nai hoà Thái Bình Dương dâng trào.

Lời bình: 

Sông Đồng Nai là một trong những bài thơ của Huỳnh Văn Nghệ sở hữu sự hòa quyện giữa dòng chảy thiên nhiên và dòng chảy lịch sử của dân tộc. Tác giả ca ngợi vẻ đẹp của dòng sông quê hương và nhấn mạnh vai trò của nó trong cuộc kháng chiến, như một biểu tượng của sức mạnh, lòng kiên cường của nhân dân miền Nam

3/ Bà mẹ Việt Nam

Có mặt nước bốn ngàn năm lịch sử
Bốn ngàn năm tranh sống với thời gian
Máu anh hùng tô non sông cẩm tú
Mồ hôi dân kết đọng ngọn lúa vàng

Mẹ Việt Nam tuổi bốn mươi thế kỷ
Gót Cà Mau đầu tận ải Nam Quan
Cửu Long Giang, buông dài làn sóng tóc
Dựa Trường Sơn, đứng gác Thái Bình Dương.

Ngàn thuở trước làm dâu nhà Hồng Lạc
Một giòng con hăm lăm triệu Tiên Rồng
Con trung hiếu, trai khôn và gái đẹp
Cùng mẹ hiền lo xây dựng non sông

Có biển rộng, sông dài, rừng núi đẹp
Đồng phì nhiêu, lúa mía ngập mênh mang
Và âm thầm bao nhiêu vàng, than thép
Dưới mỏ sâu chờ đợi bước vinh quang.

Giặc cướp nước đánh hơi từ bốn phía
Kéo về đây thực hiện mộng tham tàn
Tên núi sông trờ thành tên chiến địa
Chống xâm lăng thành truyền thống nhân dân.

Gặp thời loạn, mẹ phất cờ khởi nghĩa
Bầy con ngoan đứng dậy diệt quân thù.
Lũ cướp nước đã bao phen khiếp vía
Trở về quê không rửa kịp máu đầu.

Nay giặc Pháp lại mang đầu trở lại.
Dù tầm vông phải chọi với xe tăng
Mẹ vững tin nơi bầy con trung hiếu
Ngày mai đây diệt chúng cứu giang sơn.

Rồi Việt Nam của rừng vàng biển bạc
Của bình yên sáng lạng tiếng chim quyên
Sẽ nguyên vẹn, mẹ nghe chăng khúc hát
Khải hoàn ca từng nhịp đã vang lên.

Lời bình: 

Bà mẹ Việt Nam là tác phẩm thể hiện lòng tri ân sâu sắc của Huỳnh Văn Nghệ đối với những bà mẹ đã hy sinh thầm lặng trong chiến tranh. Bài thơ khắc họa hình ảnh người mẹ Việt Nam nhân hậu, kiên cường, với tấm lòng yêu nước và sự hy sinh lớn lao cho độc lập dân tộc.

4/ Xuân chiến khu

Xuân vẫn về đây giữa chiến khu
Rừng thông nay bỗng hết âm u
Núi non hớn hở thay màu áo
Suối biếc ngừng reo mấy nhịp cầu

Ánh sáng tưng bừng trên lá non
Chim đồi mát giọng hát véo von
Xa xa vọng gác thùng nhịp trống
Bướm giật mình bay: những mảnh hồn

Chiến sĩ từng đoàn dưới nắng tươi
Bên hoa ngồi kể chuyện, nô cười
– Xuân sau ăn tết nơi đâu nhỉ?
– Tuỳ bóng cờ kia sẽ trả lời!

Phấp phới cờ bay với gió xuân
Quân ca từng khúc, nhịp xa gần
Từng đoàn chiến sĩ đi ra trận
Có bướm, chim đưa tận cuối rừng.

Lời bình: 

Xuân chiến khu mang đậm không khí chiến đấu, nhưng vẫn tràn ngập sắc xuân. Tác giả khéo léo miêu tả sự đối lập giữa mùa xuân thiên nhiên và hoàn cảnh gian khổ, đồng thời thổi vào đó niềm tin và hy vọng về một tương lai chiến thắng cho đất nước.

Thơ của Huỳnh Văn Nghệ
Xuân chiến khu

5/ Hình ảnh Bác Hồ trong lòng Nam Bộ

Nhớ ngày sau kháng chiến.
Giữa thành phố Sài Gòn
Một chiến sĩ bị thương.
Lấy máu mình đang chảy
Tô lên tường năm chữ
“Thành phố Hồ Chí Minh”
Rồi mới đành lòng tắt thở
Cuộc kháng chiến bắt đầu từ đó
Sử Việt Nam, thêm một trang đỏ anh hùng.
“Thành phố Hồ Chí Minh”
Một lời thề thiêng liêng
Khắc sâu bằng chữ đỏ
Trong lòng người Nam Bộ
Như máu thắm lòng tim.

Giặc phá huỷ miếu đình
Đốt nhà thờ, trường học
Không làm sao đốt được
Hình ảnh Bác trong lòng dân
Hình ảnh Bác khắp nơi
Theo dân đi kháng chiến
Khắp bưng biền, rừng thẳm
Thờ bên ảnh đức Chúa Trời
Bên cạnh Phật Thích Ca
Trong ba lô chiến sĩ
Trong cặp vở học trò
Trong bức tranh hoạ sĩ
Trong vần điệu nhà thơ
Giữa cơ quan, đơn vị
Sao mắt Bắc sáng ngời
Truyền niềm tin, dũng khí.
Khẩu hiệu thành tiếng sét
Kết thúc những mít tinh
“Hồ Chí Minh muôn năm!”
Khẩu hiệu thành khúc hát
Mẹ ru con giữa rừng.

“Hồ Chủ tịch muôn năm!”
Quyết thành câu khai báo
Khi bị giặc khảo tra.
Cũng là lời trăn trối
Khi sắp sửa lìa đời.

Bao năm trời khói lửa
Chỉ mong có mặt ngày
Bác vào thăm Nam Bộ.
Nước reo vui Đổng Nai.

Vinh quanh thay anh thợ sơn
Ngày giải phóng Sài Gòn
Trèo lên cổng thành phố
Tô vàng son năm chữ
“Thành phố Hồ Chí Minh”.

Lời bình: 

Bài thơ thể hiện tình cảm kính yêu sâu sắc của đồng bào Nam Bộ đối với Bác Hồ. Hình ảnh Bác hiện lên giản dị nhưng vô cùng vĩ đại, là nguồn động viên tinh thần to lớn cho cuộc kháng chiến của miền Nam.

6/ Du kích Đồng Nai

Chiến khu Đ có từ thuở ấy
Có một anh đồng chí
Sau Nam Kỳ khởi nghĩa năm bốn mươi
Đưa chi bộ về rừng Đồng Nai
Lập chiến khu nuôi chí lớn.

Nước ngọt, dân thương, rừng rộng
Tiếng súng đêm đêm phá mộng bọn lính, tề
Bạn với núi rừng, trái cam, măng le.

Đêm lắng nghe gió trời muôn dặm:
Thuyền Hít-le chìm đắm.
Biển Liên Xô sóng đỏ dâng trào
Pháp mở cửa Đông Dương quỳ gối
Rước Nhật vào
Hơn hai triệu đồng bào chết đói…
Chi đội vũ trang mới tròn tiểu đội
Cơ sở nhân dân chỉ nội huyện Tân Uyên.
Phải chống nguỵ, tề bố ráp ngày đêm
Suất năm năm, hai chính quyền Pháp, Nhật.
Ngày đói ăn rau, đêm lo thao thức
Mỗi năm thêm nấm mộ giữa rừng:
Ba Tôn, Bảy Chiếp, Út Liễng, Tư Mừng…

Bỗng một chiều sương
Gió thu đang tơ vàng lá cám.
Động bước chân ai, giật mình rừng thẳm.
Anh Giỏi về, người thợ xưởng Ba Son.
Lá cờ son
Tay anh hé mờ
Lệ du kích Đồng Nai thấm vào vải đỏ.
Giữa mùa thu mà hoa nở thình lình.

Đọc truyền đơn như đọc bức thư tình
Từng chữ một đánh vần đến thuộc
Chiến khu xanh đêm vui đỏ đuốc
Suối mừng reo, tiếng guốc nhịp đều đều.
Chợ Tân Uyên bỗng lên giá lụa điều
Mua lụa đỏ cũng bị tra, bị đánh.
Cờ Việt Minh, ngôi sao năm cánh
Như tim vàng ngự giữa lòng son.
Cách mạng đến giữa mùa trăng tháng Tám
Chiến khu Đ, rừng vắng bóng tưng bừng.
Sợi dây thừng thắt bao đạn quanh lưng
Áo rách vai, đầu trần, đi khởi nghĩa.

Những tròng mắt bừng bừng ánh lửa
Gót chân chai giậm vỡ nhựa đường.
Cờ đỏ sao vàng
Đã ngập trời Nam Bộ:
Những đoàn người như thác đổ
Tiếng hò reo đất lở nghiêng trời
Bọn giặc Nhật rụng rời
Quỳ dâng lại Sài Gòn và lục tỉnh

Người du kích Đồng Nai gác toà thị sảnh
Ngỡ từ nay hết nghe lạnh rừng sâu.

Lời bình: 

Du kích Đồng Nai khắc họa hình ảnh những người du kích kiên cường, gan dạ, bền bỉ trong cuộc chiến. Bài thơ ca ngợi tinh thần chiến đấu dũng cảm và ý chí sắt đá của những người lính Đồng Nai, góp phần vào thắng lợi chung của cách mạng.

Ngoài Nhớ Bắc thì Du kích Đồng Nai cũng là đáp án hàng đầu cho thắc mắc Huỳnh Văn Nghệ là tác giả của bài thơ nào.

7/ Bên bờ sông xanh

Bờ sông xanh chiều hôm nay buộc ngựa,
Kiếm gối đầu theo gió thả hồn cao
Thơ tôi đây cũng hoa bướm muôn màu,
Lòng tôi đây, cũng vui sầu như bạn.
Tôi cũng biết nhớ thương, tơ tưởng.
Nào chỉ là võ tướng hay thi nhân,
Tôi là người lăn lóc trên đường trần,
Không phân biệt lúc mài gươm, múa bút.
Đời chiến sĩ máu hòa lệ, mực
Còn yêu thương là chiến đấu không thôi
Suốt một đời gươm chẳng ráo mồ hôi
Thì không lẽ bút phải chờ kiếp khác
Trên lưng ngựa múa gươm vừa ca hát
Lòng ta say chiến trận đến thành thơ
Máu quân thù chảy đỏ quê hương ta
Còn có vần thơ nào hay hơn nữa
Bạn đừng ngại vì người thơ mê ngủ
Quên cuộc đời, tìm mộng để làm thơ
Bạn đừng lo tôi say máu quân thù
Quên ghi chép những vần thơ huyền diệu
Có chiến đấu thơ mới thêm vần điệu
Càng hát ca, gươm càng sắc bén thêm
Nợ kiếm cung, nghiên bút, biết sao đền
Nếu không biết vừa làm thơ, giết giặc.
Gửi lại bạn những vần thơ trên cát
Và giờ đây tôi qua bến, lên đường.

Lời bình: 

Bên bờ sông xanh là bài thơ giàu cảm xúc, phản ánh niềm hy vọng về một tương lai hòa bình, tươi sáng cho dân tộc. Tác giả sử dụng hình ảnh dòng sông và bến bờ như ẩn dụ cho cuộc hành trình gian khổ nhưng đầy hứa hẹn của cách mạng.

Tác phẩm tiêu biểu của Huỳnh Văn Nghệ
Bên bờ sông xanh

8/ Bến cũ

Đây bến cũ chốn muôn thuyền đợi gió
Buồm phập phồng như phổi nhịp bên hông
Neo buông sâu như những sợi tơ lòng
Thuyền lớn, nhỏ toàn chứa đầy hy vọng.

Trời quang đãng mây đen vừa tan bóng
Thuyền sắp đi, bến đã động lòng thương
Ai phăng neo vội vã để đoạn trường!
Nhưng gió mới căng buồm thuyền chuyển động.

Thuyền lớn nhỏ toàn chứa đầy hy vọng
Trời xa khơi màu hứa hẹn xanh xanh
Thuyền ra đi, chim bể báo tin lành
Bến ngậm lệ đành để thuyền vượt sóng.

Rồi từ đấy bến xưa hằng mong ngóng.
Cây đa già lá rụng đã bao phen
Nhưng biệt mù khơi, nào thấy bóng thuyền,
Những thuyền xưa cùng nhau đi đuổi mộng

Về đây thôi, hỡi những thuyền hy vọng.
Chở về đây những mộng đẹp xa xôi!
Lưu luyến chi bến lạ chốn quên người
Để bến tưởng thuyền xưa đà lạc hướng.

Lời bình: 

Bến cũ là một trong các bài thơ của Huỳnh Văn Nghệ chứa đựng nỗi nhớ thương và hoài niệm về những kỷ niệm xưa, khi bến nước còn là nơi chứng kiến nhiều câu chuyện buồn vui. Tình cảm hoài hương và mong muốn trở lại những ngày tháng bình yên được thể hiện qua từng câu chữ.

9/ Đường về

Xe cũ quá kêu vang trên đường sắt,
Núi sầu che, mút mắt núi sầu che.
Xe chở lòng hay lòng đã chở xe?
Nghe ngóng quá, lòng ơi sao nặng quá!

Phải ta cứ ở nhà mơ ước nữa,
Đi làm chi mà về với đau thương.
Máu đào tuôn, cứ để máu đào tuôn
Trên đường ấy để lần sau tránh bước.

Ôi đau đớn! Chưa đi đà biết trước:
Bước lên đường là tan một giấc mơ.
Đi gặp nhau để hết nhớ mong chờ,
Tình thú vị chỉ trong thơ qua lại.

Đã lỡ bước, nên đến không muốn thấy
Nhác trông cây không trái với không chim.
Để tìm gì trong bạn chút phần tim
Người đã hứa tặng ta từ xa cách.

Nào đâu những hoa vàng chào chim khách,
Tấm khăn tình phơ phất đón sân ga.
Đâu môi duyên cười đón bạn phương xa
Và lòng mở, tim run, tay siết chặt?

Ta chỉ gặp lạnh lùng trong giếng mắt
Trên đường về xe gầm thét kêu thương…
Ta lặng yên, nén lệ, ngắm mây ngàn.

Lời bình: 

Đường về phản ánh tâm trạng của người lính sau chiến tranh, trên con đường trở về quê hương. Đó là con đường đầy kỷ niệm, khơi dậy bao cảm xúc, từ niềm tự hào về chiến thắng đến nỗi buồn về sự mất mát trong cuộc chiến.

10/ Em bé liên lạc

Nhà em ở xóm Cây Dâu
Trước kia ở đợ giữ trâu cho người
Nay em đánh giặc được rồi
Một mình bảo đảm thơ từ qua sông
Ngày đêm nước lớn, nước ròng
Em ôm thân chuối bơi không cần thuyền.
Mẹ em ngồi đứng không yên
Thương em thù giặc, ngày đêm phập phồng
Nghe từng loạt súng bờ sông
Mà nghe như đạn xé lòng, xé gan.

Quân thù vừa tóm được em
Mẹ lăn vào bót xin đem em về
“Nó chăn trâu bắt làm gì
Nó chưa đủ sức đánh Tây đâu mà…”

Ba ngày bị đánh, bị tra
Mắt lồi, má tím, máu trào môi đen
Mẹ em cũng hết lời khuyên:
“Cứ khai cho mẹ, để yên cho rồi
Thà rằng con sống mồ côi
Còn hơn để mẹ suốt đời khóc con!”
Lắc đầu em cố nói “không”

Giặc hăm cắt cổ, thả sông, em cười.
Hôm sau dòng nước Đồng Nai
Đưa ra biển cả một thây không đầu.
Mẹ em, chị Sáu Cây Dâu
Xin đi bộ đội trả thù cho con.

Lời bình: 

Em bé liên lạc là tác phẩm của Huỳnh Văn Nghệ ca ngợi lòng dũng cảm của các em nhỏ tham gia kháng chiến. Với những hình ảnh sinh động và tình cảm, tác giả khắc họa vai trò quan trọng của các em trong việc truyền tin, góp phần vào sự nghiệp giải phóng dân tộc.

11/ Hành quân

Đoàn quân đi như thân rắn uốn
Quanh đồi, qua suối, qua đồng,
Qua xóm làng như dải lụa cong cong
Êm như dòng nước.
Trẻ em chạy theo nhìn không chớp mắt.
Đếm hoài chưa hết đoàn quân.
Lúa khoai mừng đếm ướt những bàn chân,
Cành lá nguỵ trang múa reo trên mũ áo.
Cơm vắt ban đêm ngày không đỏ lửa,
Thương đồng chí anh nuôi cặp mắt mơ màng.
Chiếc nồi đồng há miệng thênh thang
Như buồn ngủ ngáp dài vô tận.
Thương anh trinh – liên suốt ngày lận đận
Chạy như thoi gác trước canh sau.
Thương chị cứu thương mũ chẳng vừa đầu.
Vì tiếc mãi chưa “hy sinh” búi tóc.
Đường gập ghềnh, quanh co, hố, dốc,
Thương anh công binh lo từng bước cho đoàn,
Nối cây rừng thành cầu dọc, cầu ngang
Lưỡi rựa bén chưa bao giờ được nghỉ
Thương đoàn ngựa thồ vừa đi vừa thở
Lưng nặng oằn chân bước mãi không than.
Bờ suối xanh mừng có lệnh nghỉ chân
Cả ngựa lẫn người cong lưng uống nước.
Thương đồng chí chỉ huy
Tới giờ đi rút vội điếu thuốc
Thương cả đoàn quân đi dưới nắng mưa
Áo ướt rồi khô, khô rồi lại ướt,
Nước lắt ống tre; muối mè cơm vắt
Nương áo nhau lần bước đêm rừng.
Cũng mệt rã rời, mỏi cả tay chân
Nhưng chị cứu thương đến đâu
Nghe cười tràn đến đó.
Cũng có người vừa đi vừa mớ.
Nhưng cả đoàn quân chung một giấc mơ:
“Ông Địa cười xe địch sẽ thành tro,
Xung phong ra đường vung cao mã tấu.”
Giặc quỳ xuống lạy xin tha thứ:
“Cho em về kẻo tội nghiệp vợ con”.
“Nhưng thôi đừng đi lính nữa nghe không?”

Bận trở về được đi đường tắt.
Súng giặc nặng vai, đầu thêm mũ sắt.
Giày đinh thu được rộng chật cứ mang
Vang bước đoàn quân chiến thắng giữa đường làng,
Đêm liên hoan đồng bào mừng trăng sáng.

Lời bình: 

Hành quân miêu tả cuộc hành quân gian khổ nhưng tràn đầy quyết tâm của những người lính. Hình ảnh đoàn quân lặng lẽ tiến về phía trước trong sự hùng tráng và niềm tin sắt đá đã để lại ấn tượng mạnh mẽ trong lòng người đọc.

12/ Nấm mộ giữa rừng

Đêm thao thức bên lò lựu đạn
Ngày say sưa quay máy tiện, máy bào.
Quá sức, ốm đau
Chén thuốc rễ cây rừng không cứu được.

Lòng anh em xót xa từng nhịp cuốc
Chôn anh, chiếu rách bó thân gầy.
Gỗ mộ bia có đề rõ tháng, ngày.
Chức vụ, họ tên, quê quán.

Nhưng mới ba mùa mưa, nắng.
Gỗ sơn kia không chịu nổi sức rừng.
Mộ bia mòn, chỉ còn chữ “công nhân”.
Còn tên, tuổi mối gặm dần hết cả.

Quê quán anh: Ba Son hay Cẩm Phả?
Mộ bia đành không ghi giữ được lâu.
Tinh thần anh, chim hát mãi nghìn thu.

Lời bình: 

Nấm mộ giữa rừng là một trong những bài thơ hay của Huỳnh Văn Nghệ nói về sự hy sinh thầm lặng của những người lính. Hình ảnh nấm mộ giữa rừng như một biểu tượng cho sự mất mát, đồng thời nhắc nhở về những giá trị thiêng liêng mà họ đã cống hiến cho Tổ quốc.

13/ Ngày hội

Biên Hoà đã mất
Chiến khu Đ cờ vẫn đỏ ngọn cao.
Du kích Tân Uyên ngày đào đắp chiên hào
Đêm tập một, hai vang trường Đất Cuốc
Già, trẻ, gái, trai rộn ràng tập hát
Tiến quân ca.
Anh Nguyễn Bình cũng đã về đây
Xem địa thế thấy sông dài rừng thẳm
Tình quân dân đầm ấm
Anh xuống ngựa buộc cương
Đồng bào mừng, thầm gọi “ông Trung ương”.
“Của Bác Hồ gửi cho Nam Bộ”

Lạc An bỗng tưng bừng ngày hội
Kéo về đây đến bốn, năm chi đội
Kim Trương, Tô Ký, Vũ Đức, Tấn Chùa,
Chiến khu Đ của tiểu đội ngày xưa
Bỗng lớn lên như Phù Đổng.
Xóm thôn rộn ràng cờ, trống
Chim rừng hốt hoảng
Tìm cành cao nhất đứng nhìn nhau.

Giữa rừng vang từng nhịp búa thầu
Của binh công xưởng đầu tiên làm lựu đạn.
Đáy sông xanh cũng xôn xao mây trắng
Thuyền ngược xuôi gạo, muối, giọng hò.

Phố Biên Hoa thị xã mến yêu
Chiến sĩ Lạc An yêu giấc ngủ.

Lời bình: 

Ngày hội thể hiện niềm vui chiến thắng và sự đoàn kết của nhân dân trong ngày hội lớn của dân tộc. Tác giả đã khắc họa không khí tưng bừng, hân hoan của ngày hội chiến thắng, mang lại niềm tin và hy vọng về một tương lai tốt đẹp.

14/ Rừng đẹp

Rừng đẹp như một bài thơ cổ
Cành cao vượn hú
Ríu rít tổ chim.
Bờ suối đỏ hoa sim
Thảm cỏ xanh điểm vàng quả bứa.
Đêm trăng một người một ngựa
Lỏng cương cho gió ráo mồ hôi.

Hội nghị giữa trời
Chim, lá cũng góp lời góp ý.
Mắc võng cây này qua cây ấy
Củi khô lửa cháy ấm đêm đông.

Tắm, ăn nước suối một giòng.
Chung cho cả ngựa, người, trên, dưới.
Củ mì luộc chia đôi chấm muối
Mặn bùi tình nghĩa anh em.
Cửa mở suốt đêm
Doanh trại, nhà dân, cơ quan chính phủ

Chung một mái tranh
Cởi mở tâm tình
Rách lành manh áo che thân
Không phân biệt nhân dân, cán bộ.

Rồi những chiều nào đó
Kháng chiến thành công
Giữa cảnh ngựa xe thành phố
Gặp lại bạn bè hay với con, với vợ
Ngồi kể lại chuyện rừng xanh núi đỏ
Tình chiến khu còn đậm mãi ấm chè thơm.

Lời bình: 

Rừng đẹp là bài thơ tả cảnh thiên nhiên hùng vĩ, thể hiện tình yêu của tác giả với quê hương, đất nước. Cảnh đẹp của rừng không chỉ là bức tranh thiên nhiên mà còn gợi lên hình ảnh về sức mạnh và sự kiên cường của nhân dân trong kháng chiến.

15/ Trở về

Mây hường vương trước ngõ
Tiếng sáo trỗi mơ màng
Hương đào đâu phương phất
Chập chờn mấy cánh loan.

Thiên thai là nơi đây
Nơi nữ tiên hò hẹn
Nơi xưa nàng đưa tiễn
Ngày ta quyết xuống trần.

Thơ ta đề cửa sổ
Nét chữ vẫn chưa phai
Ghi mối tình muôn thuở
Trần tục với bồng lai.

Gót ngọc ai dần đến
Rèm châu nhẹ vén lên
“Ôi nàng tiên yêu mến
Anh đây rồi nhớ, quên?”

Áo lam, quần lụa trắng
Khăn ngà, đôi dõn son
Hai mẹ con bước thoảng
Êm ái như đôi hồn.

Không ai nghe lời ta
Nàng không đoái nhìn ta
Cả lòng ta sụp đổ
Người đi qua hững hờ.

Mây hường tan trước ngõ
Tiếng sáo dứt bao giờ
Bầy loan theo nàng biến
Còn mình ta bơ vơ.

Thoảng hương thừa tơ tóc
Nhắc tình ấm ngày xưa
Rưng rưng hàng lệ ngọc
Nàng ơi, ta đâu ngờ!

Ta nhầm nàng sao được
Ngày xưa trong tay nhau.
Giống ta từng nét mặt
Con ta, ta quên nào!

Quay nhìn vào gương cũ:
Ta đã chết đi rồi!
Bị trần gian bao phủ
Mấy lớp đời tanh hôi.

Trán nhăn buồn nhân loại
Mắt sâu sầu thế gian
Máu thù chưa rửa sạch
Đôi bàn tay gian nan.

Nợ trần đâu đã trả
Bao năm sống với đời
Tình thương lòng tràn ngập
Tôi nào kể chi tôi.

Dưới tầng mây dày đặc
Đưa lên tận lòng tôi
Lời oán hờn u uất
Tiếng thở than ngàn đời.

Vung kiếm tan lầu ngọc
Vội chắp cánh về trần.
Tôi giật mình tỉnh giấc
Sung sướng giữa ngàn xuân.

Lời bình: 

Trở về là bài thơ đầy xúc cảm của Huỳnh Văn Nghệ khi trở lại quê hương sau chiến tranh. Bài thơ phản ánh tâm trạng vừa vui mừng vì đất nước hòa bình, vừa trầm lắng nhớ về những người đã ngã xuống vì sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.

Lời kết

Tuyển tập các bài thơ Huỳnh Văn Nghệ hay nhất đã được tổng hợp trong bài viết. Là một trong những nhà thơ trưởng thành từ kháng chiến chống Pháp, phong cách sáng tác của Huỳnh Văn Nghệ rất lạ, vừa hồn hậu vừa mạnh mẽ ngang tàng.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *